Tổng hợp các chi tiết truyện trong "Vợ Nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" (phần 1)

Ngày 31/05/2023 17:45:58, lượt xem: 1658

"Chi tiết là bụi vàng của tác phẩm" - và muốn phân tích thật hay về chi tiết truyện, các bạn phải trở thành người "đãi" vàng tài hoa. Hôm nay, chị gửi các em tổng hợp phần phân tích những chi tiết truyện trọng tâm trong "Vợ Nhặt" và "Vợ chồng A Phủ" nhé!!

 

 

1. Chi tiết “bốn bát bánh đúc”

       Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói đại ý rằng: Người cầm bút có biệt tài là có thể chọn trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc với một vài sự diễn biến sơ sài nhưng đó có khi lại là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại. Đúng như vậy, trong cái dòng đời xuôi chảy ấy các nhà văn sẽ tìm được một khoảnh khắc – một điểm sáng nghệ thuật có ý nghĩa làm nổi bật tính cách của nhân vật và góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Chi tiết bát bánh đúc trong tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân mang ý nghĩa như thế.

        Bánh đúc được làm từ bột gạo và một vài gia vị khác không thể thiếu là hạt lạc - một thứ hạt rất bùi và béo. Chính vì thế khi bánh “ra lò” được chấm với một chút nước tương thì ai nấy đều tấm khen ngon. Đối với những người con đất Việt, bánh đúc hẳn không còn xa lạ. Bởi không biết từ bao giờ, nó đã trở thành một món ăn truyền thống của chúng ta. 

          Bánh đúc - một thứ quà quê đã đi vào văn chương một cách thật tự nhiên. Đó là hình ảnh các bà, các chị đang tụm năm, tụm bảy ngoài gốc gạo đầu làng ăn bánh đúc một cách ngon lành trong “Một chuyện Xuvơnia” của Nam Cao. Một lần nữa, trên những trang văn ngai ngái mùi của rơm rạ, thơm thơm mùi của  lúa mới ta bắt gặp hình ảnh một người con gái trong cảnh đói rách, ngồi ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc. Câu chuyện được bắt đầu từ anh cu Tràng - một người nông dân nghèo, ở xóm ngụ cư - nơi mà những người sắp sửa “chết đói” đang lũ lượt, bồng bế nhau kéo đến. Trong nạn đói khủng khiếp ấy, Tràng may mắn kiếm được việc kéo xe bò thuê trở  thóc cho liên đoàn lên tỉnh. May rủi làm sao, số phận đưa đẩy khiến cho Tràng gặp thị ở chợ tỉnh. Nhưng đây là lần thứ hai gặp nhau. Lần này gặp lại, Tràng thấy thị “gầy sọp đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Sau những câu nói tầm phơ tầm phào, Tràng đã mời thị ăn. Tràng vỗ vỗ vào túi: “rích bố cu”. Thế là thị sà xuống ăn thật. Thị ăn một chặp bốn bát bánh đúc. Ăn xong, thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng…”.

Bốn bát bánh đúc tưởng chừng như đơn giản song ẩn trong đó là biết bao tấm lòng mà Kim Lân muốn gửi gắm. Đó là số phận thảm thương, khốn cùng của người vợ nhặt nói riêng và cả nhân dân ta nói chung trong nạn đói năm 1945 - người chết như ngả rạ.  Dường như cái đói đã làm méo mó hình hài, nhân cách con người. Thị trở nên chao chát, đanh đá, liều lĩnh. Vì miếng ăn thị sẵn sàng đánh mất lòng tự trọng, sự e thẹn và cả sự dịu dàng của người phụ nữ, thị “sà xuống ăn một chặp bốn bát bánh đúc”. Bốn bát bánh đúc của Kim Lân làm tôi sực nhớ đến “Một bữa no” của Nam Cao, bà của cái đĩ được đãi một bữa ăn, một bữa ăn no nhất trần đời, một bữa no tới chết. Cái đói khiến con người ta thảm thương hơn bao giờ hết. Nếu như người bà trong “Một bữa no” vì miếng ăn mà chết còn thị vì miếng ăn để sống, một lòng ham sống mãnh liệt, một khát khao chính đáng của con người. Không những thế bốn bát bánh đúc ấy còn là tấm lòng hào hiệp, tình nghĩa của anh cu Tràng. Thử hỏi trong cảnh đói khát ấy, một hạt gạo còn quý huống chi tận bốn bát bánh đúc. Vậy mà anh cu Tràng vẫn hào phóng tiếp đãi một người phụ nữ xa lạ, chẳng thân quen. Và từ “miếng ăn” ấy họ đã nên vợ thành chồng, bốn bát bánh đúc trở thành tín vật đính ước của hai con người nghèo khó. Dường như khi con người bị dồn đến tận cùng của khổ đau thì tình người lại càng ấm áp. Đúng thật vậy, đói. Nó vừa cay đắng vừa đớn đau, đồng thời một mặt nào đó lại lóe lên những tia sáng về đạo đức, danh dự.

      Chi tiết dù bé nhỏ, nhưng đều mang trong mình sức chứa lớn về tư tưởng và cảm xúc, bốn bát bánh đúc cho ta thấy hiện thực về nạn đói. Con người bị coi như cọng rơm cái rác, giá trị cả con người trở nên rẻ mạt để từ đó vang lên tiếng nói tố cáo, lên án những những chính sách tàn bạo của thực dân Pháp và phát xít Nhật đã đẩy nhân dân ta vào thảm cảnh - nạn đói thảm khốc. Nhưng đó còn là tấm lòng cảm thông, ngợi ca của Kim Lân dành cho những con người bé nhỏ, đáng thương. Một chi tiết nhỏ đã góp phần thúc đẩy cốt truyện, khắc họa số phận, phẩm chất, tính cách của các nhân vật. Chi tiết chính là bước đệm vững chắc tạo sự thành công của tác phẩm, tên tuổi của nhà văn.

 

ĐỌC THÊM Ngữ Văn 12 - Bài mẫu phân tích nhân vật Tràng ("Vợ Nhặt" - Kim Lân) hay nhất

 

2. Chi tiết “nụ cười” của nhân vật Tràng và chi tiết “giọt nước mắt” của bà cụ Tứ

        Chọn nạn đói năm 1945 – trang sử bi thương nhất của lịch sử dân tộc làm bối cảnh của câu chuyện, Kim Lân đã kể cho ta nghe một câu chuyện lạ lùng nhất trong cuộc sống: chuyện anh Tràng bỗng nhiên có người đàn bà về trong những ngày tối sầm vì đói khá. Chính tình huống độc đáo và éo le ấy đã nảy sinh bao nét tâm lí ngổn ngang, bao niềm vui, nỗi buồn. Và hình ảnh nụ cười, nước mắt trở đi trở lại nhiều lần trong tác phẩm được coi là những chi tiết nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện tài năng của Kim Lân trong việc khắc họa tâm lí nhân vật và thể hiện tư tưởng nhà văn, chủ đề tác phẩm.

Hình ảnh nụ cười được nhà văn nhắc đến nhiều lần khi khắc họa chân dung nhân vật Tràng. Khi đẩy xe bò thóc hắn vuốt mồ hôi trên mặt cười, trên đường dẫn người vợ nhặt về: hắn tủm tỉm cười, hai con mắt sáng lên lấp lánh, khi trẻ con trêu chọc Tràng bật cười Bố ranh. Khi người vợ nén tiếng thở dài trước quang cảnh của nhà Tràng, hắn “quay lại nhìn thị cười cười”. Bà cụ Tứ về, Tràng tươi cười mời mẹ ngồi lên giường…

Nụ cười của Tràng đã góp phần khắc họa tính cách, tâm lí tính cách thuần phác, nhân hậu, yêu đời của gã trai quê mùa, thô kệch; nói cùng ta niềm hạnh phúc, sung sướng của con người trong tận cùng đói khát vẫn không thôi khao khát tình yêu, tổ ấm gia đình. Đặt trong bối cảnh của câu truyện viết về nạn đói thảm thương 1945, hình ảnh nụ cười của Tràng (lặp lại 8 lần) giống như cơn gió mát lành làm dịu đi cái căng thẳng ngột ngạt, cái trăm đắng ngàn cay của con người ngày đói, thể hiện cái nhìn lạc quan, niềm hi vọng của nhà văn vào cuộc sống. Phải chăng, nhà văn đã gửi gắm một thông điệp giản dị: chỉ có tình yêu thương mới có thể mang đến niềm vui, nụ cười hạnh phúc cho con người.

Bên cạnh việc khắc họa tâm lí của Tràng qua nụ cười, Kim Lân cũng chú ý nét tâm lí của nhân vật bà cụ Tứ qua chi tiết giọt nước mắt. Khi hiểu ra cơ sự nhặt vợ của con “kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt”. Khi lo lắng cho cảnh ngộ đói khát của chúng: bà cụ nghẹn lời không nói, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng. Khi nghe thấy tiếng trống thúc thuế, bà vội ngoảnh mặt đi, bà không muốn để con dâu nhìn thấy bà khóc.

Giọt nước mắt của bà cụ Tứ góp phần thể hiện nỗi xót xa của người mẹ trước cảnh ngộ của con lấy vợ giữa “tao đoạn” và số phận không được bằng người. Việc lấy vợ của con là vui nhưng vì cái cái đói, cái chết mà khiến bà xót xa, tủi thân, tủi phận. Giọt nước mắt khổ đau ấy như lời kết án sâu sắc thực dân Pháp, phát xít Nhật đẩy dân ta đến thảm cảnh cùng cực đó.

Giọt nước mắt cho thấy tấm lòng chan chứa yêu thương con của người mẹ, những giọt nước mắt như cố kìm nén (rỉ ra hai dòng nước mắt, ngoảnh vội ra ngoài). Thương con, mừng lòng trước hạnh phúc của con, bà đào sâu chôn chặt, dấu đi nỗi lo lắng, bà khóc thầm, khóc vụng, để rồi chỉ nói những lời yêu thương, động viên con.

Nụ cười – nước mắt là biểu hiện của hai trạng thái cảm xúc đối lập nhau nhưng cùng lấp lánh ánh sáng của tình người, của tình yêu thương giữa những ngày đói khát, chúng góp phần thể hiện sự éo le của tình huống truyện, làm nên giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo sâu sắc. Khắc họa hình ảnh giàu ý nghĩa đó, Kim Lân chứng tỏ là nhà văn thấu hiểu tâm lí nhân vật, biệt tài xây dựng những chi tiết nghệ thuật nhỏ nhưng hàm chứa tầng ý nghĩa sâu sa, thể hiện quan niệm sáng tác “ quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

 

ĐỌC THÊM Hướng dẫn viết các vấn đề liên hệ mở rộng cho "Vợ Nhặt" (Kim Lân)

 

3. Chi tiết “nồi cháo cám”

Không chỉ thành công ở chi tiết nụ cười, nước mắt, Kim Lân cũng để lại trong ấn tượng đạm nét trong tâm trí người đọc ở hình tượng nồi cháo cám. Nhà văn đã để cho cái đói quay quắt se duyên cho một mối tình nhưng cũng đẩy họ đến bên bờ vực: liệu có nuôi nổi nhau qua cái thì tao đoạn này không. Bữa cơm đón nàng dâu mới làm rõ nét hơn cho cái thực trạng thảm thương của những con người khốn khó đó: giữa cái mẹt rách chỉ có niêu cháo loãng, một lùm rau chuối thái rối, đĩa muối trắng và nồi cháo cám. Cháo cám dẫu được mẹ già sang trọng gọi là chè khoán nhưng vẫn không sao xua được cảm giác đắng ngắt, chát xít nơi cổ họng, không sao nén được nỗi tủi hờn dâng lên trong tâm trí mỗi người. Bát cháo cám như đập tan cái không khí vui tươi ở phần đầu bữa ăn. Hiện thực về cái đói vô cùng khốc liệt và ám ảnh một lần nữa xuất hiện, đe dọa hạnh phúc của con người. Thứ hạnh phúc bé nhỏ, mong manh vừa mới nhen nhúm ngay lập tức bị đe dọa bởi cái đói. Nỗi xót xa, buồn tủi thấm trong trang văn của Kim Lân như lan sang người đọc.

Nhưng vượt lên trên nghĩa tả thực, bát cháo cám còn làm ngời sáng trước mắt ta tấm lòng, tình cảm của người mẹ già khốn khó. Bà cụ Tứ vừa múc cháo, vừa đùa vui: “Chè khoán đây, ngon đáo để cơ”. Nào phải bà không thấu cái vị đắng ngắt, chát xít của cháo cám, đâu phải bà không hay về tương lai mù xám của những đứa con mình? Người mẹ già ấy đã có nén lại nỗi lo lắng thắt lòng cho tương lai đôi trẻ, đã vượt qua mọi sượng sùng, ngần ngại với người con dâu về gia cảnh nhà mình để khơi dậy chút nguuồn vui cho không khí gia đình. Bên tận cùng nỗi xót xa, ta lại cảm động vô cùng trước mênh mông tấm lòng người mẹ. Hơn nữa, chẳng phải ngẫu nhiên Kim Lân lại để cho người mẹ già nua tuổi tác, xế bóng ngả chiều lại là người khơi niềm vui trong thảm cảnh ngày đói. Là Kim Lân thấy lửa, khơi lửa và tin rằng có lửa ngay trong đống tro tưởng sắp lụi tàn, thấy mầm xanh sự sống chẳng những vươn lên từ thân non hay một đời cây cường tráng mà còn khỏe khoắn vươn lên từ chính một gốc cây sắp tròn cổ thục. Không nghi ngờ gì nữa, món chè khoán của bà cụ Tứ làm một chi tiết Kim Lân trọn vẹn gởi trao niềm tin và khát vọng sống của con người.

Chi tiết bát cháo cám cũng thể hiện khát khao hạnh phúc gia đình của người đàn bà vô danh. Ta hiểu thị nhắm mắt đưa chân không đơn thuần vì miếng ăn, thị không bỏ đi khi chứng kiến gia cảnh bần hàn của Tràng, nay ta càng thấu hiểu sâu sắc hơn cái khát vọng có một bến đỗ cho con thuyền phiêu dạt, một tổ ấm dừng chân nơi thị trong cái cử chỉ “điềm nhiên và vào miệng miếng cháo cám”.  Cái cử chí và thái độ ấy cho thấy thị thật ý tứ, sẵn sàng đồng cam cộng khổ với gia đình Tràng. Hạnh phúc mong manh vừa nhen nhóm ấy, phải chăng cần lắm những đôi bàn tay nâng niu như vậy. Lời nói của bà cụ Tứ và hành động của người con dâu chính là cách những người phụ nữ giữ gìn, bảo vệ và vun đắp cho niềm hạnh phúc vừa mới chớm nở.

Sáng tạo chi tiết bát cháo cám, Kim Lân không chỉ gợi lại sinh động thảm trạng ngày đói năm nào mà nhà văn còn muốn ca ngợi tình người nồng thắm nơi những tấm lòng thuần hậu, chất phác. Trong cảnh đói bi thương ấy, họ vẫn không thôi yêu thương, vẫn nương tựa vào nhau cùng sẻ chia và cùng hi vọng.

 

Đồng hành cùng chị trong KHÓA HỌC 10 NGÀY "CHẠY" VĂN để đạt 8+ Văn trong kì thi THPT Quốc Gia nhé!

Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH:

Fanpage:  Học văn chị Hiên

Youtube: Học văn chị Hiên - Youtube 

IG: Học văn chị Hiên

Tiktok: Học văn chị Hiên

Tin liên quan