Đăng Ký Học
Ngày 03/11/2025 17:37:21, lượt xem: 868
ĐỌC THÊM: SĂN 8+ VĂN - SÁCH ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT
BÀI VIẾT THAM KHẢO ĐỀ THI OLYMPIC VNU
Câu 1: Nghị luận văn học
Khi bàn về quá trình sáng tạo của nhà văn, H. Murakami chia sẻ một câu chuyện đã từng đọc thuở ấu thơ về hai người đàn ông cùng thăm quan núi Phú Sĩ. Cả hai trước đó đều chưa từng nhìn thấy núi Phú Sĩ. Một người dừng ở chân núi quan sát từ một vài điểm rồi nhanh chóng đưa ra kết luận “điểm tuyệt vời của núi Phú Sĩ là ở đây.” Người còn lại một mình tự leo lên tận đỉnh núi, quan sát kỹ bằng tất cả tâm lực, trí lực, và sau cùng suy ngẫm “thì ra núi Phú Sĩ là như vậy.” (*) Bằng trải nghiệm văn học, anh/chị hãy bình luận ý kiến trên.
Bài làm:
“Đây những tháp gầy mòn vì mong đợi
Những đền xưa đổ nát dưới Thời gian.”
(Chế Lan Viên)
Cuộc sống luân hồi, vạn vật bị cuốn vào vòng xoay của tạo hóa. Thời gian sinh ra mọi thứ, và cũng chính thời gian hủy diệt mọi thứ. Có chăng, thứ duy nhất còn tồn tại mãi trong quỹ đạo thời gian là cái đẹp, một cái đẹp vĩnh cửu chẳng nằm ở đâu khác mà nằm ngay trong những sáng tác nghệ thuật vì con người. Văn chương cũng không nằm ngoài định luật ấy, và những người nghệ sĩ cũng không ngừng dụng công trong quá trình sáng tạo của mình. Bàn về quá trình sáng tạo của nhà văn, Murakami chia sẻ một câu chuyện đã từng đọc lúc ấu thơ về hai người đàn ông cùng tham quan núi Phú Sĩ: “Cả hai trước đó đều chưa từng nhìn thấy núi Phú Sĩ. Một người đứng ở chân núi quan sát từ một vài điểm rồi nhanh chóng đưa ra kết luận “điểm tuyệt vời của núi Phú Sĩ là ở đây”. Người còn lại một mình leo lên đỉnh núi quan sát kỹ bằng tất cả tâm lực, trí lực và sau cùng suy ngẫm “thì ra núi Phú Sĩ là như vậy”.
Câu chuyện ngắn gọn Murakami kể ra mang trong nó triết lý sâu sắc về quá trình sáng tạo nghệ thuật. Đó là một hành trình đi từ trực giác đến minh triết, từ quan sát bề mặt đến khám phá chiều sâu của bản thể. Trong cái nhìn của nhà văn Nhật Bản, người sáng tạo thực thụ không dừng lại ở việc “nhìn” thế giới, mà phải “leo lên” để sống trọn vẹn với nó, hòa thân thể và tâm hồn mình vào từng thớ đất, từng khối không gian của đời sống, rồi từ đó mới có thể cất lời: “Thì ra con người, thì ra cuộc đời là như vậy.” Sáng tạo văn chương, xét cho cùng, là một “cuộc leo núi” của tâm hồn. Nếu người đàn ông đứng ở chân núi chỉ nhìn thấy một phần cảnh sắc và dễ dàng thỏa mãn với nhận định vội vàng, thì cũng như một số người cầm bút chỉ dừng lại ở việc ghi chép đời sống. Họ mô tả thế giới bằng con mắt quan sát, chứ chưa từng sống trong nó bằng trái tim. Họ có thể nắm bắt hiện thực, nhưng hiếm khi chạm được vào bản chất của nó. Người leo lên đỉnh núi, trái lại, là hình ảnh tượng trưng cho người nghệ sĩ dấn thân, kiên nhẫn, suy tư, và đầy trải nghiệm. Anh ta không chỉ nhìn, mà còn thấm. Không chỉ “biết”, mà còn hiểu. Và khi đến được đỉnh núi, nghĩa là anh đã đi qua quá trình thăng hoa của sáng tạo đầy khó khăn: sự cô độc, nhọc nhằn, và thức ngộ. Nhận định trên đã đưa ra một cái nhìn toàn vẹn hơn về nhà văn trong quá trình sáng tạo.
Nhận định của Murakami cho người đọc có một cái nhìn toàn diện hơn về quá trình sáng tác của nhà văn. Bởi sáng tạo nghệ thuật không bao giờ là một cái nhìn hời hợt, mà là kết quả của quá trình trải nghiệm, chiêm nghiệm và khám phá bằng toàn bộ tâm lực, trí lực của người nghệ sĩ. Quá trình sáng tạo văn chương cũng vì thế mà không bao giờ là con đường bằng phẳng. Nhà phê bình Nga Sê-đrin từng nói: “Sứ mệnh của người nghệ sĩ là vượt thoát khỏi sự băng hoại của thời gian và không thừa nhận cái chết.” Người sáng tạo thực thụ không thể chỉ chạm tay vào đời sống, mà phải đi sâu đến tận cùng của những rạn nứt, nơi ẩn giấu những linh hồn, những tiếng kêu câm lặng. Bên cạnh đó, văn chương vốn xuất phát từ những trăn trở, suy tư của nhà văn về cuộc đời. Người nghệ sĩ tiếp nhận hiện thực cuộc sống muôn màu, muôn vẻ ngoài kia bằng sự cảm quan nghệ thuật kỳ diệu. Hơi thở cuộc đời ấy được chưng cất trong tâm hồn anh từ đó làm chất liệu để "hoài thai" "đứa con tinh thần" anh ao ước. Trong kiệt tác ngàn đời của nền văn học Việt Nam - “Truyện Kiều” của đại thi hào Nguyễn Du. Ông vượt qua bao tranh cãi của một thời đại dâu bể để nhìn thấu cái chung nhất, cao cả nhất trong người phụ nữ bé nhỏ bị vùi dập thời đại phong kiến. Kiều bị bọn “buôn phấn bán hương” đẩy vào lầu xanh, nàng tiểu thư đã sống một đời êm đêm giờ buộc phải bị chà đạp, vùi dập đến cùng cực. Mỗi lần vinh hoa, hạnh phúc ghé thăm nàng đưa tay ra muốn níu giữ thì lại là một lần nàng bị chà đạp, đẩy sâu xuống tận cùng tuyệt vọng. Chẳng thể làm gì khát, nàng bất lực cát tiếng than oán thực tế phũ phàng nơi vòng luẩn quẩn không lối thoát ấy:
“Mặt sao dày dạn gió sương
Thân sao bướm chán ong chường bấy thân”
Không chỉ vậy, bi kịch của nàng còn là bi kịch về tình yêu giữa “người quốc sắc kẻ thiên tài” với Kim Trọng cũng không thành. Mối tình đầy sự trân trọng, thắm thiết nồng nàn nhưng không tới được với nhau. Nhân phẩm của nàng thì bị chà đạp, vùi dập bởi những kẻ từ quan thượng thư triều đình tới con buôn gian xảo, quỷ quyệt. Thử hỏi làm gì có nỗi đau nào lớn hơn việc đánh mất phẩm giá, tiết hạnh chứ?
“Thân lươn bao quản lấm đầu
Chút lòng trinh bạch từ sau xin chừa”
Nguyễn Du với tấm lòng nghĩ suốt ngàn đời đã hoàn toàn cảm thông cho nỗi thống khổ không thể cất thành lời, thành dạng của Kiều cũng như toàn bộ những người phụ nữ phải gánh chịu đày ải phong kiến. Ông đã nghe theo tiếng nói nội tâm thám đẫm lòng nhân đạo mà chấp bút viết nên khúc đoạn trường cay đắng xót thương như một lời chiêu tuyết muộn màng đến số kiếp gấm hoa bạc phận. Nếu chỉ đứng nhìn thì có lẽ tác giả không thể viết ra một tác phẩm như thế. Nguyễn Du đã đau đớn, đã thấu tường những uất ức, gian truân của người con gái trong chế độ xưa để gửi gắm tư tưởng của mình.
Bên việc viết để phản ánh hiện thực, người nghệ sĩ còn phải là người nhìn thấy những điều ít ai thấy trong cuộc sống. Để rồi từ đó thể hiện một cái nhìn đầy nhân bản, đồng thời gợi mở những suy nghĩ trong lòng bạn đọc. Trong “Nỗi buồn chiến tranh’, Bảo Ninh đã viết về bi kịch của Kiên- kẻ bị cái chết bỏ lại và quay quắt, mòn mỏi giữa chiến thắng và sự tự do anh cùng đồng đội hằng mơ ước. Anh không thể thoát khỏi những ám ảnh về bom đạn và thuốc súng, dường như một mảnh hồn anh đã để lại nơi chiến trường, vùi chôn bên những tan hoang đổ nát của xác thịt đồng đội và một thời lửa đạn đã lùi xa. Có những đêm không ngủ được, vì tưởng tiếng quạt trần là tiếng máy bay phản lực, những gì bình ổn của cuộc sống mới đang không ngừng thay mình đổi dạ ấy thật khác biệt và xa lạ với người lính như anh. Tác phẩm miêu tả đến tận cùng bi kịch của một kẻ sống lạc thời, lạc đời từng ngày lê bước mỏi mòn bên lề của sự sống. Có lẽ, Kiên sẽ mãi mãi dằn vặt và mắc kẹt trong quá khứ tăm tối ấy, không có gì đáng để mừng vui, nhưng anh thuộc về nơi đó, là nơi đã gắn bó và nuôi lớn anh, hơn là một xã hội đang không ngừng đổi mới và xoay vần bên những gánh nặng đồng tiền, cơm áo hơn cả. Thứ thực tại mà Bảo Ninh đào khoét ấy khiến những con người sinh sống ở thời bình dị như ta không hết ghê rợn với những ám ảnh dai dẳng mà nó đem lại. Nó viết về tội ác và những góc khuất quá gay gắt, viết về những điều không ai muốn nhắc đến, viết về những giọt nước mắt chảy ngược trong tâm can kẻ khốn cùng khiến chúng ta không ngừng quan ngại và bất an. Nhưng hơn cả, những giá trị mà “Nỗi buồn chiến tranh” đem lại là vô cùng to lớn, nó vạch trận những đau đớn, góc khuất của những người lính mà khiến ta trăn trở, day dứt về sứ mệnh và giá trị thực sự của con người.
Một tác phẩm hay không chỉ đòi hỏi tài năng của người sáng tạo mà còn cần đến trái tim của anh ta. Thông qua tác phẩm, nhà văn phải thể hiện được tư tưởng, suy nghĩ đúng đắn, đồng thời là sự cảm thông của anh ta đối với những kiếp người. Victor Hugo đã viết cho “những người đàn ông sa đọa vì bán sức lao động, những người đàn bà trụy lạc vì đói khát và những đứa trẻ cằn cỗi vì tối tăm”. Nhưng hơn hết, “Những người khốn khổ” còn đem đến những giá trị vượt thời đại, là mẫu số chung cho mọi kiếp người. Đó là triết lý về tình yêu thương. “Trên đời này chỉ có một điều thôi, ấy là yêu thương nhau”. Sự yêu thương và lòng vị tha cao cả của đức giám mục Myrie đã cứu cuộc đời của tên tù khổ sai Jean Vanjean khỏi những tội lỗi, khỏi bóng tối của cái ác và tàn nhẫn. Rồi Jean Vanjean lại lan tỏa tình yêu đó đến với tất cả những người ông gặp, những người phụ nữ khổ sở, tội nghiệp, những người đàn ông lầm lỗi và nghèo nàn. Triết lý về tình yêu thương của Victor Hugo trong “Những người khốn khổ” không chỉ đúng trong xã hội và thời đại của ông, mà còn đúng trong mọi thời, đúng với mọi người. Tình yêu thương, lòng nhân đạo cao cả của con người, ấy là những giá trị vững bền có thể giúp đỡ, cứu rỗi và cùng con người tránh xa ngày tận thế. Từ nỗi đau của Thúy Kiều đến ám ảnh hậu chiến của Kiên hay triết lý nhân ái của Jean Valjean, mọi giá trị bất tử đều được thai nghén từ những cuộc “leo núi” gian khổ của người nghệ sĩ. Họ đã không bằng lòng với những tri giác dễ dãi nơi “chân đồi”, mà dấn thân bằng toàn bộ tâm lực và trí lực để chiếm lĩnh những triết lý nhân sinh. Nghệ thuật khi ấy không chỉ là sự mô tả đơn thuần mà trở thành nơi làm nổi bật lên cái đẹp ở con người.
Người sáng tạo văn chương có tầm quan trọng lớn lao trong sứ mệnh đưa cái đẹp trở thành bất tử. Vì vậy nên những gì anh ta viết ra phải là phát hiện độc đáo, xuất phát từ trí tuệ và cảm xúc chân thực nhất của anh, không thể là sự sao chép hay lặp lại chính mình. Những vẻ đẹp riêng và mới lạ, ấy là nguyên lý tồn tại của văn chương. M. Gorki từng nhận định: “Người sáng tạo ra tác phẩm là nhà văn nhưng người làm nên sức sống cho tác phẩm là độc giả.” Công cuộc tiếp nhận văn học cũng đóng góp một phần không nhỏ cho việc đưa văn học trường tồn với thời gian. Sức sống của tác phẩm còn tùy thuộc vào việc người đọc có thể hiểu hết những giá trị to lớn và bền vững của các tác phẩm, để đánh giá đúng đắn và bảo vệ sinh mệnh của văn chương hay không? Do đó, người đọc cần chủ động và tiếp thu sáng tạo những gì nhà văn viết ra, có một độ sâu sắc và tinh tế nhất định để thấm được những chân lý mà nhà văn đã gửi gắm trong tác phẩm. Khi ấy “phần hồn” của văn chương mới có thể siêu thoát và thăng hoa.
Quá trình sáng tạo nghệ thuật như Murakami nhắn gửi yêu cầu nhà văn phải nhận thức, quan sát và viết nên những áng văn bằng lòng nhân ái. Nhà văn phải đi, phải thấy, phải đau, phải yêu, phải sống đến tận cùng. Chỉ khi ấy, anh mới có thể nói: “Thì ra cuộc đời là như vậy.” Và cũng chỉ khi ấy, văn chương mới đủ sức soi sáng những tâm hồn người đọc, nối dài hành trình vĩnh cửu của cái đẹp vượt qua mọi giới hạn của thời gian.
ĐỌC THÊM: SĂN 8+ VĂN - SÁCH ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT
(7).png)
Đăng ký khóa học và đọc thêm nhiều bài viết hấp dẫn khác của Học Văn Chị Hiên tại đây:
- Fanpage Học Văn Chị Hiên
- Fanpage Học Văn Chị Hiên - THCS Lớp 6,7,8,9
- Tiktok Học Văn Chị Hiên
- Khóa học Ngữ Văn chất lượng cao lớp 12
- Khóa học Bứt phá điểm thi cuối học kì 1 - lớp 12
- Khóa học Phương pháp và luyện đề lớp 11
- Khóa học Phương pháp và luyện đề lớp 10
- Khóa học Thực chiến toàn diện lớp 9
- Khóa học Bứt phá điểm thi cuối học kì 1 - lớp 9
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 8
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 7
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 6
Tin liên quan