Điều còn lại mà chiến tranh không thể lấy đi trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" (Nguyễn Quang Sáng)

Ngày 18/01/2022 16:04:04, lượt xem: 11785

Cuộc kháng chiến chống Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước là một trong những trang hào hùng trong lịch sử giữ nước của dân tộc. Là sản phẩm tinh thần của thời đại anh hùng và đầy đau thương, hy sinh ấy, văn xuôi cũng như cả nền văn học đã làm trọn sứ mệnh lịch sử đối với dân tộc và thời đại. Khi nhà văn ý thức sâu sắc về trách nhiệm công dân của người cầm bút, khi nhà văn tự giác làm người chiến sĩ trên trận tuyến chống quân thù thì không còn vấn đề băn khoăn giữa lợi ích nghệ thuật và nhiệm vụ chính trị. Trong bất cứ hoàn cảnh nào thì tình cảm gia đình luôn gắn bó không thể tách rời. Và trong chiến tranh thì tình cảm đó càng được thể hiện một cách sâu sắc. Ta có thể thấy được tình cảm này qua truyện ngắn Chiếc lược ngà của Nguyễn Quang Sáng. Và đã có lúc những thế hệ sau như chúng tôi đã từng đặt ra câu hỏi rằng: “Điều còn lại mà chiến tranh không thể lấy đi trong tác phẩm "Chiếc lược ngà” là gì?

 

Điều còn lại mà chiến tranh không thể lấy đi trong tác phẩm "Chiếc lược ngà" (Nguyễn Quang Sáng)

“Điều còn lại” ở đây ta có thể hiểu đó là những điều thiêng liêng có giá trị vượt lên trên sự hủy diệt của chiến tranh, vượt lên trên thời gian để tồn tại vĩnh cửu. Mà tính chất của chiến tranh thì tàn khốc, hủy diệt, gây ra sự sinh ly tử biệt. Trong truyện “Chiếc lược ngà”, chiến tranh đã tàn phá thân thể, lấy đi sinh mạng, gây ra đau thương, chia cắt tình cảm của con người nhưng nó không thể lấy đi lí tưởng sống cao đẹp, lòng yêu nước người chiến sĩ. Họ sẵn sàng từ giã vợ trẻ, con thơ để lên đường theo tiếng gọi của Tổ quốc. Nén tình riêng để tiếp tục ra đi sau những ngày nghỉ phép. Hiến dâng trọn vẹn tuổi thanh xuân cho dân tộc.

Tác phẩm “Chiếc lược ngà” được nhà văn Nguyễn Quang Sáng viết vào năm 1966 tại chính chiến trường miền Nam trong thời kì cuộc kháng chiến chống Mĩ đang diễn ra ác liệt. Truyện thể hiện thật thấm thía, cảm động tình cảm cha con sâu nặng và cao đẹp trong cảnh ngộ éo le của chiến tranh.

Văn học kháng chiến là nền văn học của tình yêu và khát vọng lớn. Khi Tổ quốc bị họa ngoại xâm thì tình cảm sâu nặng nhất của người dân Việt Nam là tình yêu nước, khát vọng lớn nhất của dân tộc Việt Nam là độc lập tự do. Văn học là tiếng nói tình cảm, là phương tiện bộc lộ, giãi bày chia sẻ của chủ thể sáng tạo với con người. Tình cảm mãnh liệt nhất đang thôi thúc trong tim nhà văn Việt Nam lúc này là tình yêu đất nước. Tình yêu đất nước là nội dung cảm hứng xuyên suốt, nổi bật nhất. Tình cảm đó được biểu hiện phong phú, đa dạng và gắn bó với nhiều tình cảm khác như tình cảm dân tộc, tình yêu quê hương, tình đồng chí đồng đội, tình yêu lứa đôi, tình người tình đời trong thử thách lớn lao... Tình yêu nước có lúc là nguồn cảm xúc trào dâng đòi bộc lộ: Ôi Tổ quốc! Ta yêu như máu thịt/ Như mẹ cha, như vợ, như chồng (Chế Lan Viên), có lúc thể hiện qua ý thức gắn bó, nâng niu từng mảnh đất mà mỗi người đang sống. Dường như hình ảnh đất, nước, con đường, dòng sông, rừng núi, bầu trời Việt Nam đã trở thành yếu tố thường trực trong tâm trí của người cầm bút. Ý thức về đất nước thống nhất đã giúp những người dân bình dị có tầm nhìn rộng hơn, vượt khỏi giới hạn lũy tre làng. Ðây cũng là cách nhìn của những người luôn đau đáu niềm khát vọng thống nhất non sông đất nước. Trong truyện “Chiếc lược ngà” chính bởi tình yêu nước sâu đậm nên ông Sáu, một nông dân Nam Bộ đã nén đau thương để xa nhà đi kháng chiến khi Thu - đứa con gái bé bỏng chưa đầy một tuổi. Mãi khi Thu tám tuổi, ông mới có dịp về thăm nhà, thăm con. Bé Thu không nhận ra cha vì vết sẹo trên mặt ông làm ông không còn giống với người trong bức ảnh mà em biết. Em cư xử với ba như người xa lạ. Đến lúc nhận ra cha, tình cha con thức dậy mãnh liệt thì cũng là lúc ông Sáu phải ra đi. Ở khu căn cứ, Ông Sáu dồn hết tình cảm yêu quý, thương nhớ con vào việc làm cây lược bằng ngà voi để tặng đứa con gái bé bỏng. Thế nhưng, trong một trận đánh, ông đã hi sinh. Trước lúc nhắm mắt, ông chỉ kịp trao cây lược cho người bạn để gửi về cho đứa con ông yêu quý.

 

ĐỌC THÊM Phân tích nhân vật bé Thu trong "Chiếc lược ngà"


Viết Chiếc lược ngà, Nguyễn Quang Sáng không miêu tả nhiều về cuộc chiến, ông hướng ngòi bút vào đời sống tình cảm gia đình và những chuyển biến tâm lí của nhân vật ông Sáu và bé Thu. Đó là một thử thách lớn đối với nhà văn. Làm thế nào để gắn kết giữa cái chung và cái riêng, giữa nhiệm vụ chiến đấu và trách nhiệm với gia đình. Dĩ nhiên, nhà văn đã có ý định và cách thể hiện hợp lí nhưng để làm bừng sáng lí tưởng cách mạng và khát vọng tự do, khẳng định sâu sắc tình cảm gia đình trong chiến tranh đòi hỏi nhà văn phải có điểm nhìn hợp lí, đúng đắn, tự nhiên và giàu sức thuyết phục.
Tình cảm của ông đối với con gái nhỏ được biểu hiện phần nào trong chuyến về thăm nhà. Trên đường về thăm nhà trong lòng ông bồi hồi xúc động: cái tình người cha cứ nôn nao trong lòng ông. Người cha được về thăm nhà sau bao nhiêu năm ở chiến khu. Khao khát đốt lòng ông là được gặp con, là được nghe con gọi tiếng ba, để được sống trong tình cảm cha con, mà lâu nay ông chưa từng được sống, bấy lâu ông mong đợi. Nhưng mọi chuyện đã diễn ra không ít trái ngang. Khi xuống chưa kịp cập bến, ông vội vàng nhảy thót lên bờ, xô cái xuồng tạt ra xa. Ông khát khao gặp con, khát khao ôm ấp hình hài máu mủ của mình sau bao năm xa cách. Điều này cũng là lẽ tất nhiên thôi. Ông đã xa con gái, xa gia đình trong tám năm trời ròng rã. Tám năm là khoảng thời gian quá dài để kìm nén trong lòng một nỗi nhớ. Và rồi cuối cùng nỗi nhớ ấy cũng được bộc lộ. Trông thấy đứa trẻ chơi trước sân nhà, ông đã cất tiếng gọi con thân thương trìu mến bằng tất cả tấm lòng mình: Thu con! Ba đây con! Ba đây con”. Tiếng gọi thổn thức của người cha cất lên từ sâu thẳm trái tim của người lính sau bao năm xa cách làm xao động tâm hồn người đọc. Nhưng trái với niềm mong đợi của ông, những tưởng bé Thu sẽ vào tới, ôm lấy thoả những tháng ngày xa cách. Nhưng không, ông hẫng hụt bất ngờ khi thấy: “Bé tròn mắt ngơ ngác nhìn rồi sợ hãi bỏ chạy” khiến ông Sáu sững sờ, thất vọng, rơi vào tâm trạng hụt hẫng.

Tuy nhiên, tình yêu của người cha đã khiến ông sau cái giây phút choáng váng ban đầu, cái giây phút “mặt sầm lại trông thật đáng thương và hai tay buông xuống như bị gãy” ông vẫn kiên trì gần gũi con. Những ngày ở bên con, trong ba ngày phép ngắn ngủi, ông luôn ở bên con không đi đâu xa, suốt ngày chỉ tìm cách an ủi vỗ về nó. Ông tìm mọi cách để mong được nghe một tiếng ba” nhưng đều thất bại. Khi má bảo Thu kêu ba vô ăn cơm, dọa đánh để cô bé gọi ba một tiếng. Thu nói trống không: “Con kêu rồi người ta không nghe”. Hai từ “người ta” mà Thu kêu làm ông đau lòng, khổ tâm. Nó cũng chẳng nhờ chắt nước cơm giùm. Ông Sáu buồn quá đến nỗi không khóc được nên cuối cùng ông phải cười mà không nỡ giận con. Quả thật, ông là người cha chịu nhiều thiệt thòi nhưng giàu lòng nhân hậu vị tha. Trong bữa cơm, bằng lòng thương của người cha ông Sáu gắp cho con cái trứng cá to và vàng ươm, ông tưởng con sẽ đón nhận vậy mà nó bất thần hất cái trứng cá ra khỏi chén. Nỗi đau khổ trong ba ngày nén chịu trào lên, ông giận quá đánh con đã làm mất tia hy vọng cuối cùng về tình phụ tử. Lúc đó ông đau đớn vô cùng. Lòng ông như sa mạc khô cháy mong chờ giọt nước mát lạnh của tình yêu thương nơi đứa con sống với ông vẫn chỉ là khao khát bởi bé Thu bỏ sang ngoại không một lời xin lỗi. Qua đó, chúng ta thấm thía sự mất mát lớn lao của người lính trong kháng chiến.

 

ĐỌC THÊM Phân tích nhân vật ông Sáu trong "Chiếc lược ngà"


Vì nhiệm vụ đối với đất nước, ông không thể ở lại với con. Trở về khu căn cứ, ông mang nỗi ân hận đã đánh con và lời con dặn trước lúc chia tay vào việc làm một chiếc lược ngà tặng con. Chỉ kiếm được khúc ngà voi, ông đã vô cùng sung sướng, dành hết tâm trí, công sức vào làm chiếc lược: “Những lúc rỗi, anh cưa từng chiếc răng lược thận trọng, tỉ mỉ, kì công như một người thợ bạc. Trên sống lưng lược có khắc dòng chữ Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Chiếc lược ấy chưa chải được mái tóc con nhưng như gỡ được phần nào tâm trạng của ông. Nó trở thành vật thiêng, an ủi ông, nuôi dưỡng trong ông tình cha con và sức mạnh chiến đấu. Hàng đêm, ông nhìn ngắm chiếc lược, mài nó lên tóc cho thêm bóng thêm mượt. Tác giả không miêu tả rõ nhưng người đọc vẫn hình dung được cái kỉ vật nhỏ bé mà thiêng liêng ấy. Đó cũng là biểu tượng trắng trong, quý giá, bất diệt của tình cha con giữa ông Sáu và bé Thu. Do đó, trước lúc hi sinh, không đủ sức nói một lời trăng trối, ông vẫn nhớ tới chiếc lược và chuyển giao nó cho người bạn như một cử chỉ chuyển giao sự sống, một ước nguyện gìn giữ muôn đời tình cha con ruột thịt. Điều đó đúng như ông Ba đã nói: “Có lẽ chỉ có tình cha con là không thể chết được”. Chiếc lược ngà – kỉ vật của người cha – kỉ vật của người đã khuất mãi mười năm sau mới tìm được địa chỉ, mới được trao lại cho đứa con gái bé bỏng để “tình cha con không chết”. Và hơn thế nữa, nó đang sống lại trong sự sống của người bạn, người đồng chí với bé Thu. Như vậy, câu chuyện Chiếc lược ngà không chỉ ca ngợi tình cha con đậm đà sâu nặng bất diệt, ca ngợi tình đồng chí đồng đội mà còn gợi cho người đọc thấm thía những nỗi đau thương mất mát, éo le mà chiến tranh gieo xuống cho bao con người, bao gia đình trên đất nước Việt Nam. Và ở “Chiếc lược ngà” ta cũng nhận ra một điều: Chiến tranh không thể lấy đi niềm tin của con người. Cả ông Sáu và bé Thu đều có niềm tin ngày đất nước hòa bình. Tác giả tin vào sự kết nối tình cảm của những người còn sống: mối quan hệ giữa bác Ba và bé Thu.

Tác phẩm Chiếc lược ngà hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản nhưng chặt chẽ. Tác giả đã khai thác tâm lý nhân vật vô cùng tinh tế, thể hiện sự chuyển đổi tâm lý nhân vật vô cùng sâu sắc. Sự hy sinh của anh Sáu và kỷ vật mà anh để lại cho con gái mình khiến cho nhiều người đọc cảm thấy xót xa, nghẹn ngào, tội ác của chiến tranh là vô cùng to lớn.

Có thể thấy rằng chiến tranh có thể hủy hoại mọi thứ nhưng những giá trị nhân văn, cốt lõi vẫn luôn ở lại với chúng ta. Vẻ đẹp và lí tưởng sống cao cả của những người lính là linh hồn của hai cuộc kháng chiến trường kì. Ở họ có sự hội tụ đầy đủ phẩm chất, tâm hồn và tính cách, hành động tiêu biểu cho những con người anh hùng dân tộc.
Trang sách khép lại mà sao hình ảnh hai cha con ông Sáu và những tình cảm của họ vẫn còn để lại ấn tượng trong lòng người đọc. Truyện không chỉ dừng lại ở việc khắc họa tình cảm phụ tử mà còn có ý nghĩa tố cáo hiện thực, tố cáo chiến tranh đã đập nát bao nhiêu cảnh yên vui, đã phá tan đi biết bao nhiêu là hạnh phúc của các gia đình, khiến vợ chồng xa cách, cha con xa nhau. Chiến tranh đã qua đi nhưng kí ức về những con người làm nên lịch sử còn hằn sâu trong tâm trí mỗi người dân Việt Nam. Lớp người của thế hệ hôm nay xin tiếp nối truyền thống ông cha để làm vẻ vang non sông, để đất nước Việt Nam mãi là:

“Đất nước của Nhân dân,
Đất nước của ca dao, thần thoại.”

 

Để giúp ích cho các em thật nhiều trong kì thi quan trọng sắp tới thì chỉ có thể là những buổi học tại KHÓA HỌC CẤP TỐC 2K7  – một khóa học sẽ giúp các em cải thiện cũng như nâng cao kĩ năng làm bài để đạt được kết quả cao nhất.

Đăng ký khóa học và đọc thêm nhiều bài viết hấp dẫn khác của Học Văn Chị Hiên tại đây:
Facebook Học Văn Chị Hiên THCS
Youtube Học Văn Chị Hiên

Instagram Học Văn Chị Hiên
Tiktok Học Văn Chị Hiên

Tin liên quan