TỔNG HỢP BÀI VIẾT MẪU TẤT CẢ CÁC DẠNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 9

Ngày 21/04/2025 14:25:47, lượt xem: 107

Đề 1: Viết đoạn văn ghi lại cảm nghĩ của em về bài thơ “Bài thơ quê hương” của tác giả Nguyễn Bính.

Bài làm

Nguyễn Bính là một trong những nhà thơ thành công vang dội khi viết về đề tài quê hương, đất nước. Hồn thơ của ông giản dị, mộc mạc nhưng có sức lay động mạnh mẽ trái tim bạn đọc. Trong đó, tác phẩm “Bài thơ quê hương” đã thực sự để lại trong tôi nhiều cảm xúc. Nhà thơ Nguyễn Bính đã gửi vào trang thơ của mình không đơn thuần chỉ là những chất liệu văn học dân gian như “cây bầu cây nhị”, truyện “Thạch Sanh”, hình ảnh “cô Tấm”, các phong tục, tập quán, … mà đó còn là hồn cốt, là văn hóa của dân tộc. Tác giả đã gợi nhắc về những năm tháng hào hùng của dân tộc, về những vị anh hùng như “bà Trưng, bà Triệu”, “Lê Lợi”, “Hưng Đạo Vương” đã góp công giữ gìn độc lập cho giang sơn gấm vóc. Ý thơ “Quê hương tôi có Trường Sơn một dải,/ Có Hồng Hà lại có Cửu Long Giang/Có Hà Nội, có hồ Tây, hồ Kiếm/Chợ Đồng Xuân bày đủ mặt hàng” gợi nhắc người đọc về những địa danh nổi tiếng suốt dọc chiều dài đất nước. Đó cũng là lời khẳng định mạnh mẽ về ý thức chủ quyền dân tộc của tác giả. Trong thi phẩm, không gian quê hương hiện lên ngọt ngào, bay bổng tiếng thơ, làn điệu dân ca: “Trong bụng mẹ đã từng mê tiếng hát/ Nên quê tôi ai cũng biết làm thơ/ Những trẻ nhỏ nằm nôi hay đặt võng/ Sớm hay chiều đều mượn cánh cò đưa”. Hình ảnh trong bốn câu thơ hiện lên dung dị, mộc mạc đã thể hiện tình yêu chân thành, sâu sắc của thi sĩ dành cho quê hương. Càng về cuối tác phẩm, cảm xúc của nhà thơ như được căng trào mạnh mẽ. Để rồi, trong tôi trào dâng niềm tự hào về tinh thần đoàn kết, truyền thống chống giặc giữ nước của nhân dân ta khi đọc những vần thơ: “Khi có giặc những tre làng khắp nước/ Đều xả thân làm ngọn mác, mũi chông”.  Qua những hình ảnh, chi tiết đó ta thấy được lòng yêu nước nồng nàn, sự trân trọng của tác giả đối với văn hóa và lịch sử dân tộc. Với giọng thơ nhẹ nhàng, các chất liệu văn học dân gian được sử dụng hiệu quả cùng các biện pháp tu từ điệp ngữ, so sánh, liệt kê … nhà thơ đã đánh thức lòng tự hào, ý thức dân tộc mạnh mẽ trong lòng bạn đọc. Quả thực, bài thơ như một lời nhắc nhở mỗi chúng ta phải biết yêu quý, biết trân trọng những giá trị truyền thống, những trang sử vẻ vang của dân tộc. 

 

Đề 2: Em hãy viết bài văn nghị luận về một vấn đề cần giải quyết về mối quan hệ giữa con người với tự nhiên.

Bài làm

Tôi vẫn còn nhớ trong bài thơ “Nói với con”, người cha Y Phương đã dặn con những lời thấm thía: “Rừng cho hoa/ Con đường cho những tấm lòng”. Ý thơ “Rừng cho hoa” thật đẹp bởi “hoa” ở đây không chỉ là bông hoa thơm ngát mà còn là biểu tượng cho những vẻ đẹp tinh túy mà rừng núi thiên nhiên ban tặng cho con người. Ý thơ sâu sắc khiến ta một lần nữa nghĩ về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, những hành động mà con người đang ngày ngày tác động đến thiên nhiên. Trong đó, nạn phá rừng là điều ta không khỏi trăn trở. 

Không ngẫu nhiên mà rừng lại được tất cả các quốc gia trên thế giới đặt mối quan tâm đặc biệt. Bởi lẽ, rừng đã đem đến rất nhiều lợi ích cho con người và các loài động thực vật. Trước hết, rừng là ngôi nhà chung của nhiều loài động, thực vật sinh sống. Theo thống kê của các nhà khoa học, rừng Amazon là ngôi nhà chung của khoảng 2,5 triệu loài côn trùng, khoảng 2.000 loài chim cùng thú, và còn rất nhiều những loài động thực vật khác cư trú ở đây. Ngoài ra, rừng còn là chiếc khiên che chắn cho con người trước thiên tai, hiểm họa tự nhiên. Đặc biệt, đại ngàn bao la còn được xem là lá phổi xanh, là điều hòa tự nhiên của Trái Đất. Nó đã đem hết những gì mình có cung cấp cho con người nguồn ô-xi bất tận. Chính nguồn oxi đó đã giúp con người tồn tại và phát triển. 

Quả thực, rừng là người bạn, người đồng hành đem đến cho ta nhiều lợi ích. Ấy vậy mà, con người không những không biết ơn mà còn chặt phá những cánh rừng nhằm phục vụ cho những lợi ích riêng của mình. Những cánh rừng được hình thành hàng nghìn năm, những cây cổ thụ sừng sững hiên ngang giữa trời luôn là đối tượng con người hướng đến khai thác. Chỉ trong khoảng thời gian ngắn, diện tích nhiều cánh rừng đã bị thu hẹp, những quả đồi xanh bỗng chốc trở nên trơ trụi. Theo ước tính của các nhà khoa học, trên thế giới có khoảng 11,1 triệu héc-ta rừng nhiệt đới đã bị phá hủy vào năm 2021, trong đó có 3,75 triệu héc-ta là rừng nguyên sinh. Còn tồi tệ hơn, sau khi khai thác, con người lại bỏ mặc rừng ở đó, không có biện pháp trồng rừng, khôi phục rừng. Lâu dần, đất trở nên cằn cỗi, cây con khó phát triển. Và rừng đã không thể khôi phục như trước được nữa. 

Nạn phá rừng bắt nguồn từ nhiều nguyên nhân khác nhau. Trước hết, nó bắt nguồn từ nhu cầu của con người. Hiện nay, dân số ngày càng tăng, nhu cầu về đất ở, du lịch nghỉ dưỡng của con người cũng theo đó mà tăng lên. Chính vì lẽ đó mà con người đã chặt phá rừng để làm nơi sinh sống của mình và khai thác làm các khu du lịch, khu tham quan phục vụ nhu cầu vui chơi, giải trí của con người. Đặc biệt, nguyên nhân của nạn phá rừng còn xuất phát từ công tác quản lý của các cấp chính quyền. Các cơ quan chức năng chưa có các biện pháp hiệu quả nhằm ngăn chặn, răn đe các trường hợp vi phạm về bảo vệ rừng. Chính những nguyên nhân nêu trên đã khiến cho nạn phá rừng diễn ra ngày càng nghiêm trọng hơn. 

Trái ngọt, hoa thơm không tự nhiên mà ta có được. Khi có được phải biết trân trọng và biết ơn người tạo nên. Thiên nhiên đã tạo cho con người những điều kiện cần để sinh sống. Thế nhưng, con người lại vô ơn, tàn phá, hủy hoại những cánh rừng. Chính điều đó đã làm mẹ thiên nhiên ngày càng phẫn nộ. Con người đã và đang phải đối diện với cơn phẫn nộ đó. Biến đổi khí hậu, hiệu ứng nhà kính, trái đất nóng lên,… là những gì con người phải chịu sau những hành động vô ơn của mình. Đồng thời, chúng ta cũng đang dần mất đi những loài động, thực vật quý hiếm. Chặt phá rừng cũng đồng nghĩa với việc mình đang phá hủy ngôi nhà của hàng triệu, hàng triệu các loài sinh vật khác nhau. Quả thực, hậu quả của nạn phá rừng vô cùng lớn, không chỉ đối với con người mà còn là tất cả các loài động thực vật đang sinh sống trong rừng.

Để ngăn chặn tình trạng chặt phá rừng chúng ta cần làm như thế nào? Trước hết, mỗi người dân cần là một tấm gương trong công cuộc bảo vệ rừng. Chúng ta có thể thường xuyên chia sẻ, tuyên truyền các bài viết về bảo vệ rừng, các chiến dịch trồng cây gây rừng tới cộng đồng. Có như thế thì ý thức giữ gìn và bảo vệ rừng ở mỗi người dân mới có thể ngày càng được nâng cao. Không những vậy, mỗi chúng ta cũng cần cùng nhau chung tay trồng cây gây rừng bằng việc tham gia các chiến dịch phủ xanh đồi trọc; xây dựng các vườn ươm giống cây; chiến dịch chăm sóc cây rừng; … Trong những năm gần đây đã không ít các tổ chức đã thực hiện các chiến dịch trồng cây gây rừng như: chiến dịch trồng rừng innisfree- WWF tại Khu Bảo tồn Đất ngập nước Láng Sen, hay hoạt động trồng rừng “AQUA chăm- trăm sức dưỡng sống”, … Hiện nay, với sự phát triển vượt trội của công nghệ thông tin, mỗi chúng ta cũng có thể xây dựng các trang thông tin giới thiệu các khu bảo tồn để mọi người biết tới và cùng nhau chung tay giữ gìn và bảo vệ rừng. Đồng thời, việc tái chế giấy cũng là một trong những giải pháp mà chúng ta có thể thực hiện nhằm góp sức mình vào công cuộc bảo vệ rừng. Bởi lẽ, tái chế một tấn giấy có thể tiết kiệm 17 cây xanh. Những hành động thiết thực đó của chúng ta sẽ góp phần khôi phục sự sống của những cánh rừng xanh và không ai trong chúng ta đứng ngoài công cuộc bảo vệ và ngăn chặn nạn phá rừng. 

Tóm lại, phá rừng là hành vi tiêu cực của con người tác động tới tự nhiên. Mỗi chúng ta, là người đang được hưởng những lợi ích của rừng, cần có những nhận thức đúng đắn về tầm quan trọng của rừng. Đồng thời, mỗi người cũng cần góp sức mình vào công cuộc ngăn chặn nạn phá rừng. Hãy nhớ rằng: “Bảo vệ rừng là bảo vệ nguồn sống của chúng ta”. 


 

Đề 3: Phân tích bài thơ “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến. (Thơ song thất lục bát)

Bài làm

Tự bao đời, tình bạn đã trở thành một đề tài quen thuộc của văn học nghệ thuật nói chung và của thi ca nói riêng. Lịch sử thơ Việt từ xưa đến nay có không ít những tình bạn đẹp, in dấu vào nhiều tác phẩm. Ta bắt gặp những “tiếng khóc” nghẹn ngào khi người bạn của mình phải rời xa trần thế trong “Viếng bạn” của Hoàng Lộc hay “Diệu ơi Diệu đã về yên tịnh” của Huy Cận. Nhưng có lẽ, người đọc sẽ mãi ấn tượng và nhớ đến những vần thơ lay động lòng người trong “Khóc Dương Khuê” của Nguyễn Khuyến. Bài thơ được sáng tác vào năm 1882, khi người bạn Dương Khuê qua đời, thể hiện nỗi tiếc thương vô hạn và niềm xót xa tột cùng của tác giả trước sự ra đi của người bạn tri kỷ.

Nguyễn Khuyến và Dương Khuê là hai người bạn tri kỉ, họ đỗ tiến sĩ và làm quan dưới triều Nguyễn. Tình bạn đó được xây dựng trên cơ sở sự tín nhiệm, sự tương trợ và chia sẻ những niềm đam mê, ước mơ trong cuộc sống. Cái chết đột ngột của Dương Khuê khiến Nguyễn Khuyến rơi vào sự đau buồn không lối thoát. Ông nhớ lại những kỷ niệm đẹp của hai người, từ những cuộc đàm đạo thân mật đến những chuyến đi chinh phục những ngọn núi hiểm trở. Trong lòng Nguyễn Khuyến, Dương Khuê vẫn là một phần tâm hồn của ông. Có thể xem đây cũng là một bài văn tế được viết bằng thể thơ song thất lục bát, giọng thơ réo rắt đẫm lệ.

Mở đầu bài thơ là tiếng nấc nghẹn ngào: “Bác Dương thôi đã thôi rồi”. Câu thơ ngắn gọn nhưng chứa đựng bao niềm xót xa, thương tiếc trước sự ra đi đột ngột của người bạn tri kỷ. Nỗi đau ấy càng được tô đậm thêm qua hình ảnh “nước mây man mác ngậm ngùi lòng ta”. Từ “man mác” bản thân nó đã gợi nên một nỗi buồn mênh mông. Khi kết hợp với cặp từ “ngậm ngùi” lại làm cho lời thơ nghe càng thêm tâm trạng. Không riêng gì nỗi đau mất đi một người tri kỉ mà sâu xa hơn còn là tiếng lòng của nhà thơ đối với đất nước. Hai chữ “nước mây” chỉ hai sự vật cách xa. Nước chảy, mây trôi, xa nhau vời vợi, nghìn trùng cách trở, có mấy khi gặp nhau. Song, lòng nước chảy, dù đi đâu về đâu vẫn ôm ấp bóng mây trôi.Khung cảnh thiên nhiên ảm đạm, u buồn như hòa quyện với tâm trạng của thi sĩ, thể hiện sự bàng hoàng, đau đớn trước tin bạn qua đời.

Tình bạn gắn bó, keo sơn của hai người được hiện lên qua những dòng hồi tưởng của Nguyễn Khuyến:

“Nhớ từ thuở đăng khoa ngày trước,

Vẫn sớm hôm tôi bác cùng nhau.

Kính yêu từ trước đến sau,

Trong khi gặp gỡ khác đâu duyên trời.”

Từ thuở “đăng khoa ngày trước”, hai người đã cùng nhau “sớm hôm”, “kính yêu”, chia sẻ mọi buồn vui trong cuộc sống. Đây là câu thơ nghiêm trang nhất của bài thơ. Một tình bạn đẹp và cao quý thì chẳng những biết “yêu” mà còn phải biết “kính”. Người đời, trong tình bạn thường biết “yêu” mà ít biết “kính” (kính người trên thì dễ, kính người ngang thì khó). Bạn nhắm mắt rồi mà nói được “kính yêu từ trước đến sau” thì tình bạn ấy thật là toàn vẹn như một viên ngọc không tì vết. 

Nhà thơ hồi tưởng lại những kỉ niệm một thời gắn bó của nhà thơ và bạn: cùng đi thi, cùng làm quan, cùng làm thơ – uống rượu và cùng chia sẻ buồn vui trong cuộc đời…

“Cũng có lúc chơi nơi dặm khách,

Tiếng suối nghe róc rách lưng đèo,

Có khi từng gác cheo leo,

Thú vui con hát lựa chiều cầm xoang.”

Điệp từ “cũng có lúc... có khi” cho ta thấy kỉ niệm hiện về dồn dập, sống động chân thực, khó phai mờ. Họ đã từng cùng trải qua những giờ phút thú vị, chứng tỏ họ là những người bạn ý hợp tâm đầu, có tâm hồn biết thưởng thức và chia sẻ những niềm vui thanh cao của kẻ tao nhân mặc khách. Nhắc lại những kỉ niệm đó, tâm hồn nhà thơ như còn rung cảm vì tiếng suối “róc rách lưng đèo” nơi “dặm khách” xa xôi. Nhà thơ như cùng đang sống lại với những cảm giác thích thú “nơi từng gác cheo leo”, lắng nghe tiếng đàn, tiếng hát của các đào nương. Những kỉ niệm ấy được nhắc lại theo dòng thời gian từ xa đến gần; giọng thơ trầm đều thể hiện tình cảm giữa nhà thơ với bạn càng chồng chất.

Là đôi bạn đến với nhau, thân nhau vì lòng mến mộ lẫn nhau, tình bạn giữa Nguyễn Khuyến và Dương Khuê thật là chỗ tri âm tri kỉ, “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”:

“Cũng có lúc rượu ngon cùng nhắp,

Chén quỳnh tương ăm ắp bầu xuân,

Có khi bàn soạn câu văn,

Biết bao đông bích, điển phần trước sau.”

Nỗi buồn thương của Nguyễn Khuyến càng thêm da diết khi ông nhận ra rằng: “Bác già, tôi cũng già rồi”. Hai câu thơ “Biết thôi, thôi thế thì thôi mới là!” thể hiện sự bất lực, cam chịu trước quy luật sinh tử. Nỗi nuối tiếc ấy càng được thể hiện rõ nét hơn qua những câu thơ: “Muốn đi lại tuổi già thêm nhác/Trước ba năm gặp bác một lần”. Thi sĩ mong muốn được gặp lại bạn lần nữa, để hàn huyên tâm sự, để ôn lại những kỷ niệm đẹp đẽ của tình bạn. Đặc biệt câu thơ cuối đoạn, có đến ba từ “thôi” trùng điệp, khác nghĩa nhau mà như cùng một nghĩa, bổ sung cho nhau, tạo ra ấn tượng về một tâm trạng cam chịu thật nặng nề: “Biết thôi- thôi - thế thì thôi”. 

Tin bạn qua đời khiến Nguyễn Khuyến cảm thấy bàng hoàng, đau đớn: “Chợt nghe, tôi bỗng chân tay rụng rời”. Câu hỏi tu từ “Ai chẳng biết chán đời là phải/Sao vội vàng đã mải lên tiên” thể hiện sự xót xa, trách móc trước sự ra đi đột ngột của người bạn. Nỗi cô đơn bao trùm lấy thi sĩ khi ông không còn người bạn tri kỷ để chia sẻ tâm tư, tình cảm: “Rượu ngon không có bạn hiền/Không mua không phải không tiền không mua”. Giọng thơ kể lể, tự tình trong lời than thấm đầy lệ. Các tiếng “tôi” và “bác” xuất hiện nhiều lần trong đoạn thơ như hai linh hồn đang nương tựa vào nhau; nỗi đau buồn như được nhân lên gấp bội.

Trong đoạn thơ hồi tưởng này, những kỉ niệm được trình bày theo trình tự thời gian, từ “thuở đăng khoa” đến ngày bạn qua đời. Phép liệt kê, trùng điệp được vận dụng để gây ấn tượng về một tình bạn lâu bền, sâu sắc, thuỷ chung và vô cùng thắm thiết. Có lúc ta cảm thấy người sống đang đối thoại và tâm sự với người đã khuất. Sáu đoạn thơ đã kể lại đủ hết các giai đoạn của tình bạn, lời kể nào cũng chân thành, đằm thắm. Nguyễn Khuyến vừa kể lể, vừa nức nở.

Bốn câu cuối bài thơ như một tiếng nấc đau đớn. Tuổi già vốn ít lệ (hạt lệ như sương), nên chỉ biết khóc ở trong lòng. Khóc bạn chuyển thành nỗi niềm như cam chịu số phận bi thương. Chỉ cầu mong cho linh hồn bạn thanh thản “lên tiên”:

“Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở,

Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương,

Tuổi già hạt lệ như sương,

Hơi đâu ép lấy hai hàng chứa chan.”

Nhà thơ khuyên mình không nên khóc, bởi tuổi già còn ít nước mắt lắm, chỉ như những hạt sương mong manh thôi, làm sao có thể ép cho nước mắt tuôn chảy thành hai hàng chứa chan được. Nhưng nói như thế là nói lí. Tự nhà thơ vẫn hiểu rằng không thể “lấy nhớ làm thương” được, và càng hiểu rằng hai hàng nước mắt chứa chan của ông lúc này đâu phải do ông “ép lấy”. Hai câu thơ: “Bác chẳng ở dẫu van chẳng ở - Tôi tuy thương lấy nhớ làm thương” với cách diễn đạt trùng điệp và tăng cấp đã tạo nên giọng thơ buồn thê thiết, Nguyễn Khuyến để lại nhiều tiếng khóc: khóc cho đất nước và dân tộc, khóc vợ, khóc con, khóc bạn,... Mỗi chữ trong thơ ông đều đẫm đầy nước mắt, những hạt lệ từ một nỗi đau lớn, từ một tình bạn lớn.

Có thể thấy, với thể thơ song thất lục bát, ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi kết hợp với nhiều biện pháp tu từ như: ẩn dụ, điệp ngữ, đối lập,... cảm xúc của bài thơ đã được thể hiện một cách chân thật và sâu lắng. Người đọc như cảm nhận được nỗi đau, sự tiếc nuối của tác giả khi người bạn thân của mình qua đời. 

Tình bạn sâu đậm của hai nhà nho đã được khắc họa một cách chân thực và cảm động qua từng câu chữ. Bài thơ không chỉ là một tác phẩm văn học xuất sắc mà còn là một minh chứng cho tài năng của nhà thơ. Qua bài thơ “Khóc Dương Khuê”, chúng ta càng hiểu hơn về giá trị của tình bạn trong cuộc sống. Tình bạn chân thành là một món quà vô giá, giúp chúng ta vượt qua những khó khăn và sóng gió và chúng ta hãy trân trọng những người bạn của chính mình. 

 

Đề 4: Thuyết minh về một danh lam thắng cảnh hoặc một di tích mà em biết.

Bài làm

Nhà tù Hỏa Lò- chứng nhân lịch sử giữa đất trời Thủ đô

Trong bản “Tuyên ngôn độc Lập” năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phơi bày bộ mặt dã man, tàn bạo của thực dân Pháp khi đô hộ nước ta: “Chúng lập ra nhà tù nhiều hơn trường học. Chúng thẳng tay chém giết những người yêu nước thương nòi của ta. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong những bể máu”. Tội ác ấy của Thực dân Pháp đã in hằn trên những di tích lịch sử còn tồn tại đến ngày nay. Trong đó, nhà tù Hỏa Lò là một trong những minh chứng sống về tội ác của thực dân Pháp và tinh thần kiên cường, bất khuất của lớp lớp những nhà cách mạng kiên chung với Tổ quốc. 

Lịch sử hình thành và hoạt động của nhà tù Hỏa Lò

Nhà tù Hỏa Lò được Pháp xây dựng năm 1986 nhằm giam giữ các tù nhân chính trị, những nhà yêu nước chống đối chính quyền thực dân.  Nhà tù được xây dựng trên khu đất rộng 12.908 m2 tại làng Hỏa Lò (nay thuộc số 1, phố Hỏa Lò, phường Trần Hưng Đạo, quận Hoàn Kiếm, thành phố Hà Nội). Ban đầu, nhà tù được Pháp xây dựng với sức chứa khoảng 500 tù nhân. Tuy nhiên, từ năm 1950- 1953, Hỏa Lò là nơi giam cầm của hơn 2000 người tù. Với những hình thức tra tấn người tù dã man, nhà tù Hỏa Lò từ lâu đã trở thành “chốn địa ngục trần gian”. Nhiều nhà cách mạng đã bị Pháp giam giữ, tra tấn như Phan Bội Châu, Lương Văn Can, Trường Chinh, Lê Duẩn, Đỗ Mười, … Trong đó, đã có không ít những người tù chính trị đã hy sinh trước những đòn tra tấn dã man, tàn bạo của thực dân Pháp. Qua những biến động thăng trầm của lịch sử, cho đến nay, diện tích nhà tù Hỏa Lò bị thu hẹp còn 2434 m2 với các công trình còn giữ lại cho tới ngày nay như: 3 tòa nhà 2 tầng được xây dựng theo lối kiến trúc Pháp, 2 dãy trại giam tập thể cho nam và nữ tù binh, 4 giam xà lim tử hình, 2 chòi canh và một bức tường đá bao quanh nhà tù. Ngày nay, nhà tù Hỏa Lò đã trở thành một địa điểm tham quan của nhiều người dân Việt Nam. 

Những giá trị còn mãi với thời gian

Tham quan nhà tù Hỏa Lò, du khách không thể bỏ qua các gian nhà giam như trại giam tập thể, xà lim, phòng tối, … Đặc biệt là chiêm ngưỡng bức tường khắc họa lại hình ảnh tra tấn, những trận đòn roi chốn lao tù. Mỗi hình ảnh, mỗi gian phòng, mỗi đồ vật được trưng bày ở đây đều chứa đựng những đau thương của người tù chính trị. Nơi đó cũng ánh ngời ý chí cách mạng, lòng yêu nước, tinh thần bất khuất của lớp lớp những cha anh kiên trung với Tổ quốc. Trong khuôn viên di tích hiện nay, để tưởng niệm những người chiến sĩ cách mạng đã hy sinh tại đây, nhà nước đã lập đài tưởng niệm để du khách tới thăm thắp nén hương tỏ lòng thành kính, biết ơn. Có thể nói, ngày nay, nhà tù Hỏa Lò không chỉ là một khu di tích lịch sử mà còn là nơi giáo dục về lòng yêu nước đối với mỗi người dân Việt Nam đặc biệt là thế hệ trẻ. 

Cách di chuyển tới khu di tích

Chúng ta có thể sử dụng nhiều phương tiện như xe máy, xe bus, ô tô, … để đến tham quan khu di tích lịch sử này. 

Giờ mở cửa

Hiện nay, nhà tù Hỏa Lò mở cửa đón du khách từ 8h đến 17h hàng ngày.

Giá vé

Giá vé tham quan đối với người lớn là 30 nghìn đồng/ người, đối với học sinh, sinh viên, người trên 60 tuổi là 15 nghìn đồng/ người. 

Khu di tích nhà tù Hỏa Lò là một trong những nhân chứng sống cho những năm tháng vất vả, đau thương của lịch sử dân tộc, là nơi mà ánh lửa bất khuất, kiên cường của người chiến sĩ vẫn luôn rực cháy. Quả thực, đây là địa điểm tham quan lý tưởng mà mỗi chúng ta nên lui tới một lần trong đời. 

 

Đề 5: Hãy phân tích một đoạn thơ mà em yêu thích trong “Truyện Kiều” (Nguyễn Du) hoặc “Truyện Lục Vân Tiên” (Nguyễn Đình Chiểu)

Phân tích đoạn trích: 

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một tài đành họa hai

Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên bạc mệnh lại càng não nhân”

(Trích “Chị em Thuý Kiều" - Nguyễn Du)

Bài làm

Chế Lan Viên đã từng viết: “Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn”. Có thể nói, “Đoạn Trường Tân Thanh” với những dòng lục bát tuyệt diệu là niềm tự hào cho nền văn chương Việt Nam. “Truyện Kiều” là cốt cách, là vẻ đẹp của dân tộc Việt Nam. Ở “Truyện Kiều” ta thấy được một tài năng nghệ thuật bậc thầy của tác giả để rồi có được những câu thơ vút bay trên bầu trời thi ca dân tộc. Tiêu biểu cho ngòi bút tài năng ấy là đoạn trích: “Chị em Thúy Kiều”. Đoạn trích đã miêu tả được nét đẹp sắc nước hương trời Thuý Kiều - một vẻ đẹp mười phân vẹn mười trong văn học trung đại Việt Nam. 

Nếu như trong những câu thơ trước tác giả tập trung giới thiệu về vẻ đẹp duyên dáng thanh, thanh cao, trong trắng của cả hai chị em Vân - Kiều đồng thời khắc họa vẻ đẹp cao sang, đoan trang, quý phái, phúc hậu của Thúy Vân thì ở mười hai câu này Nguyễn Du đã dùng bút lực của mình để phác họa Thúy Kiều:

“Kiều càng sắc sảo mặn mà

So bề tài sắc lại là phần hơn

Làn thu thủy nét xuân sơn

Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh

Một hai nghiêng nước nghiêng thành

Sắc đành đòi một tài đành họa hai”

Khi miêu tả Thuý Vân, tác giả chỉ rõ vẻ đẹp của từng bộ phận trên cơ thể, rồi đem ví với thiên nhiên, thì ở Thúy Kiều, hầu như Nguyễn Du chỉ gợi nhẹ, dùng bút pháp chấm phá để người đọc tự liên tưởng ra bức tranh Thúy Kiều. Sắc của Kiều làm cho người ta ngưỡng mộ say mê đến nỗi có thể “mất nước, mất thành”, còn thiên nhiên thì ganh ghét đố kị, “hoa ghen, liễu hờn”. Bậc đại thi hào dân tộc ấy cũng dùng những hình tượng nghệ thuật ước lệ “thu thủy” (nước mùa thu), “xuân sơn” (núi mùa xuân), “hoa”, “liễu” để gợi tả sắc đẹp của Kiều nhưng không thiên về cụ thể như tả Vân mà gợi một ấn tượng chung về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế. Tác giả không tả nhiều chi tiết mà chỉ đặc tả đôi mắt theo lối “điểm nhãn” vẽ hồn của chân dung: “làn thu thủy, nét xuân sơn” những hình ảnh ẩn dụ này gợi lên đôi mắt trong sáng, long lanh, linh hoạt như làn nước mùa thu, đôi lông mày thanh tú nổi bật trên gương mặt trẻ trung như nét núi mùa xuân. Đôi mắt đó là cửa sổ tâm hồn thể hiện phần tinh anh của trí tuệ sự trong trẻo mơ màng và thanh tao, cao quý của nàng Kiều. Vẻ đẹp của Kiều khiến hoa phải ghen, liễu phải hờn làm nước nghiêng thành đổ báo hiệu một số phận “lành ít dữ nhiều”: “Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh”. 

Không chỉ mang một vẻ đẹp “nghiêng nước nghiêng thành”, Kiều còn là một cô gái rất mực thông minh và tài hoa:

“Thông minh vốn sẵn tính trời

Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm

Cung thương làu bậc ngũ âm

Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương

Khúc nhà tay lựa nên chương

Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”

Tài năng của Kiều đạt đến mức lý tưởng theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến: đủ cả cầm, kỳ, thi, họa lĩnh vực nào cũng đạt đến độ giỏi giang, toàn diện “đủ mùi ca ngâm”, “làu bậc ngũ âm”. Đặc biệt là tài đàn của nàng, đó là sở trường, là năng khiếu đáng khâm phục “Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương/ Khúc nhà tay lựa nên chương/ Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân”. Cực tả cái tài của Kiều cũng là để ca ngợi cái tâm đặc biệt của nàng bởi cung đàn “Bạc mệnh” mà Kiều sáng tác chính là tiếng lòng của một trái tim đa sầu đa cảm, nồng nhiệt, một tâm hồn tinh tế nhạy cảm. Vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp của sắc - tài - tình, tất cả đều đạt đến mức lí tưởng hoàn hảo. Thế nhưng chân dung Thúy Kiều là chân dung mang tính cách số phận, một số phận éo le, đau khổ một định mệnh nghiệt ngã bởi vẻ đẹp của nàng là vẻ đẹp mà khiến tạo hóa ghen ghét, các vẻ đẹp khác đố kị, cùng với cái tài hoa thông minh là tâm hồn đa sầu đa cảm. Dung nhan tươi thắm, thanh tân cùng cung đàn sầu não mà nàng viết lên lại nhấn mạnh sự đối kháng, không tương hợp giữa con người với thiên nhiên. “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen” nên vẻ đẹp của Thúy Kiều dường như là một dự báo về cuộc đời nổi chìm, nhiều giông bão, lắm gian truân, bất hạnh. Thông qua đó Nguyễn Du còn bày tỏ thái độ trân trọng ngợi ca vẻ đẹp của người phụ nữ đồng thời xót thương về kiếp người hồng nhan bạc mệnh, “sắc tài thay mà lại lắm truân chuyên”.

Đến đây chúng ta thấy được tài năng độc đáo của Nguyễn Du trong việc khắc họa chân dung nhân vật. Từ vẻ đẹp chân dung, nhà thơ thể hiện những dự cảm về tính cách, cuộc đời, số phận của nhân vật. Và mặc dù, ở những câu thơ phía trước, tác giả giới thiệu Thúy kiều là chị, em là Thúy Vân nhưng sau đó, nhà thơ lại miêu tả chân dung nhân vật Vân trước, Kiều sau. Đó là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ trong việc tạo ra thủ pháp "đòn bẩy". Điều đó có tác dụng nhấn mạnh và làm nổi bật được vẻ đẹp độc đáo, vượt trội về cả sắc lẫn tài và tình của nhân vật Thúy Kiều. Vì thế, tuy cùng sử dụng nghệ thuật ước lệ tượng trưng khi miêu tả hai nhân vật nhưng chúng ta thấy được mức độ đậm nhạt khác nhau ở mỗi người. 

Với cảm hứng nhân đạo và tài nghệ thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên bức chân dung Thuý Kiều bằng những gì đẹp đẽ, mỹ lệ nhất. Đoạn trích “Chị em Thúy Kiều” được coi là đỉnh cao mẫu mực của nghệ thuật miêu tả (tả người) trong văn thơ trung đại xưa. Đặc biệt, với nhân vật Thúy Kiều tác giả không chỉ miêu tả vẻ đẹp sắc sảo, đằm thắm về ngoại hình mà còn tập trung bút lực vào vẻ đẹp tài năng, trí tuệ, cốt cách bên trong của nàng. Sự tinh tế trong cảm nhận, khéo léo dụng ý trong lựa chọn ngôn ngữ, hình ảnh miêu tả, Nguyễn Du với “Chị em Thúy Kiều” đã mang đến một bức chân dung hoàn mĩ có một không hai trong lịch sử văn học dân tộc.

 

Đề 6: Phân tích những đặc sắc nghệ thuật và nội dung của tác phẩm “Lặng lẽ Sa Pa” (Nguyễn Thành Long).

Bài làm

Nguyễn Thành Long là một cây bút chuyên viết truyện ngắn. Tính cách ông đằm thắm, nhẹ nhàng như những gì ông viết. Ông đưa cả cuộc sống vào những trang văn. Nhận xét về truyện ngắn của Nguyễn Thành Long, Tô Hoài đã cho rằng: “Mỗi truyện ngắn của Nguyễn Thành Long tương tự  như một trang đời, một mảng, một nét của cuộc sống chắt ra. Ta thường gặp ở Nguyễn Thành Long những nhận xét nho nhỏ, như nhắc khẽ người đọc”. Ý kiến ấy thật đúng với truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” – một tác phẩm nhẹ nhàng, giàu chất thơ, khắc họa chân thực cuộc sống của con người ở chốn Sa Pa lặng lẽ.
Truyện ngắn “Lặng lẽ Sa Pa” là kết quả của chuyến đi Lào Cai trong mùa hè năm 1970 và được in trong tập “Giữa trong xanh”. Trong tác phẩm của mình, nhà văn Nguyễn Thành Long đã lựa chọn viết về những người lao động đảm nhận các công việc thầm lặng, đóng góp vào công cuộc xây dựng đất nước trong những năm 1970. Qua đó, nhà văn cũng thầm ngợi ca những cống hiến của tất cả những con người “không tên" vào công cuộc đổi mới cho đất nước - và đó cũng là chính là chủ đề của truyện.
Có thể nói, nhan đề của truyện ngắn là điểm nhấn, là dấu ấn khó phai trong lòng bạn đọc. Chính vì lẽ đó, nhà văn Nguyễn Thành Long đã rất khéo léo trong việc đặt nhan đề tác phẩm của mình. Khi đọc nhan đề truyện, người đọc cứ ngỡ rằng nhà văn sẽ đi sâu vào việc khắc họa một bức tranh thiên nhiên, một vùng đất thơ mộng. Nhưng đằng sau cái ý vị nên thơ của phong cảnh Sa Pa là cuộc sống của những người lao động trẻ tuổi, đầy nhiệt huyết đang cống hiến tài , sức cho quê hương. Tiêu biểu là nhân vật anh thanh niên làm công tác khí tượng thủy văn kiêm vật lý địa cầu trên đỉnh núi Yên Sơn cao 2.600 m.
Bên cạnh đó, “Lặng lẽ Sa Pa" được Nguyễn Thành Long xây dựng tình huống truyện tuy đơn giản mà hấp dẫn. Đó là cuộc gặp gỡ tình cờ giữa những vị khách với anh thanh niên làm công tác khí tượng trên đỉnh Yên Sơn. Đây cũng là cách để câu chuyện được phát triển tự nhiên mà hình ảnh các nhân vật được nổi bật qua cái nhìn đánh giá khách quan hơn. 
Anh thanh niên là nhân vật chính nhưng không xuất hiện với một cách trực tiếp mà xuất hiện qua lời giới thiệu của bác lái xe với ông họa sĩ và cô kỹ sư nông nghiệp khi họ nghỉ ngơi trên dọc đường. Nhân vật hiện lên tự nhiên, chân thực, khách quan qua cái nhìn nhận và đánh giá của nhân vật khác. Cuộc gặp gỡ tình cờ giữa anh thanh niên và ông họa sĩ tuy ngắn ngủi nhưng người đọc đủ cảm nhận sâu sắc hoàn cảnh sống, làm việc và những phẩm chất tốt đẹp của  anh. Anh thanh niên được gọi một cái tên vô cùng đặc biệt là người "cô độc nhất thế gian". Khi hoàn cảnh sống của anh chỉ quanh năm suốt tháng bốn bề là cỏ cây, mây núi. Công việc của anh là đo gió, đo mưa đo nắng. Công việc đòi hỏi có sự tỉ mỉ, chính xác và có tinh thần trách nhiệm cao. Đặc biệt nơi đây còn có thời tiết rất khắc nghiệt. Thế nhưng anh không hề cảm thấy buồn tẻ chán nản mà rất hạnh phúc “khi có công việc là đôi". Chính những suy nghĩ và thái độ sống tích cực đã giúp anh vượt qua khó khăn trong hoàn cảnh sống và công việc của mình.
Không chỉ là người có thái độ sống và suy nghĩ tích cực, anh thanh niên còn là người nông hậu và mến khách. Thời gian đầu khi tiếp nhận công việc trên đỉnh Yên Sơn bốn bề chỉ có “cây cỏ và mây mù lạnh lẽo”, anh thanh niên đã không ít lần “kiếm kế dừng xe” để thỏa mãn sự “thèm người” của mình. Không những vậy, khi gặp cô gái, anh “rất tự nhiên như với người bạn đã quen thân, trao bó hoa đã cắt” cho cô. Trong giao tiếp với mọi người, anh toát lên một phong cách đẹp, một nét đẹp trong từng cử chỉ. Anh đã tặng củ tam thất cho vợ bác lái xe bị ốm, tặng trứng cho ông họa sĩ già. Quả thực, anh thanh niên chính là hình ảnh tiêu biểu, đại diện cho những con người nồng hậu và mến khách. 
Giữa nơi bốn bề là mây phủ sương giăng, anh thanh niên hiện lên rực rỡ với đức cống hiến quên mình cho công việc, cho đất nước. Mặc dù, “ở đây có cả mưa tuyết đấy. Nửa đêm đang nằm trong chăn, nghe chuông đồng hồ chỉ muốn đưa tay tắt đi. Chui ra khỏi chăn, ngọn đèn vặn to đến cỡ nào vẫn thấy không đủ sáng. Sách đèn ra vườn, gió tuyết và lặng im ở bên ngoài như chỉ chực mình ra là ào ào xô tới. Cái lặng im lúc đó mới thật dễ sợ: nó như bị chặt ra từng khúc, mà gió thì giống như những nhát chổi muốn quét đi tất cả, ném vứt lung tung… Những lúc im lặng lạnh cóng mà lại hừng hực như cháy” nhưng anh thanh viên vẫn luôn kiên cường bám trụ và hết mình với công việc. Mặc cái giá lạnh của thời tiết, mặc cái tĩnh lặng đến rợn người của những đêm khuya, mặc cả sự cô đơn bám siết, nhưng anh vẫn luôn tận tụy với công việc khí tượng của mình. 
Không chỉ khắc họa hình ảnh anh thanh niên cống hiến quên mình vì công việc, tác giả Nguyễn Thành Long còn lựa chọn miêu tả trong trang viết của mình những người lao động khác. Họ cũng có một lối sống đẹp, sự cống hiến thầm lặng trong công việc, làm giàu đẹp cho quê hương, đất nước. Đó là ông kỹ sư nông nghiệp- người đã giúp anh thanh niên “thấy cuộc đời đẹp quá. Đó là anh kỹ sư “sẵn sàng chờ sét” để tạo ra “cái bản đồ sét cho riêng nước ta”. Tất cả những con người ấy đều cần cù lao động, chịu thương, chịu khó với một sức chịu đựng dẻo dai, bền bỉ, có tinh thần trách nhiệm với sự phát triển của đất nước quê hương.
Trong tác phẩm của mình, nhà văn Nguyễn Thành Long đã xây dựng nên hình tượng bác lái xe, ông họa sĩ, cô kỹ sư nông nghiệp để truyền tải những ý đồ, tư tưởng của mình. Bác lái xe, ông họa sĩ hay cô kĩ sư “không phải đơn giản là những bản dập của cuộc sống con người” mà họ là những nhân vật có vai trò không thể thiếu trong diễn biến cốt truyện. Nhờ có bác lái xe mà diễn biến chuyển được mở một cách tự nhiên. Đây chính là cầu nối gặp gỡ giữa người miền xuôi với người miền ngược, tạo nên cuộc gặp gỡ bất ngờ thú vị. Ông họa sĩ chính là sự hóa thân của nhà văn khi phát hiện ra chân lý của nghệ thuật và cảm hứng. Còn cô kỹ sư chính là ảnh của thế hệ trẻ tràn đầy nhiệt huyết. Cô đã tìm được nguồn động lực trong công việc, từ đó vững tin hơn trong cuộc sống với sự lựa chọn nghề nghiệp của mình. 
Bằng việc xây dựng tình huống truyện hợp lý - cuộc gặp gỡ giữa anh thanh niên, ông họa sĩ, cô kỹ sư nông nghiệp cùng cách kể chuyện tự nhiên đã giúp tác phẩm ghi dấu ấn đậm sâu trong lòng độc giả. Đặc biệt, nghệ thuật xây dựng nhân vật tự nhiên, gần gũi đã khẳng định tài năng của tác giả Nguyễn Thành Long. Qua đó, bạn đọc đã cảm nhận được bức tranh chân dung về những người lao động cống hiến quên mình cho công việc, cho đất nước. Đồng thời, nhà văn cũng gửi gắm khát vọng thế hệ trẻ hôm nay và mai sau sẽ dùng sức trẻ, nhiệt huyết của mình để làm giàu đẹp thêm cho đất nước. 
Gấp lại những trang sách ấy, “Lặng lẽ Sa Pa” vẫn còn để lại những vấn vương trong lòng người đọc. Chỉ bằng vài nét khắc hoạ, Nguyễn Thành Long đã mang đến cho người đọc những con người bình dị nhưng sức mạnh phi thường, hi sinh tuổi xuân của mình để cống hiến cho mùa xuân lớn của đất nước, của dân tộc. Từ đó, “Lặng lẽ Sa Pa” trong lòng người đọc giống như “một bài thơ về vẻ đẹp trong cách sống và suy nghĩ của con người lao động bình thường mà cao cả, những mẫu người của một giai đoạn lịch sử có nhiều gian khổ và hi sinh nhưng cũng thật trong sáng, đẹp đẽ. Từ hình ảnh những con người ấy gợi lên cho ta những suy nghĩ về ý nghĩa của cuộc sống, của lao động tự giác, về con người và về nghệ thuật.”

 

Đề 7: Viết truyện kể sáng tạo có yếu tố trinh thám.

Bài làm

CÂU CHUYỆN VỀ LÒNG TIN 
    Trong giờ tự học, không khí tĩnh lặng, mọi người đang chăm chú đọc sách, làm bài tập. Bỗng Thảo hoảng hốt lục lọi balo, lật dở từng trang vở của mình để tìm thứ gì đó. Thấy thế, Hùng quay sang hỏi:
- Cậu đang tìm gì thế? 
Thảo vừa tìm vừa trả lời Hùng: 
- Tớ không thấy quỹ lớp đâu cả. Sáng nay, lúc các cậu nộp tớ đã kẹp trong quyển sổ để trong cặp. Lúc trước khi xuống sân học thể dục tớ đã kiểm tra lại rồi, giờ lại không thấy đâu nữa. 
    Câu trả lời của Thảo đã phá tan không gian yên tĩnh của lớp học. Mọi người đổ dồn ánh mắt về phía Thảo và bắt đầu bàn tán xôn xao xem liệu có ai lấy trộm số tiền đó không. Vài người bạn trong lớp chạy về phía Thảo để phụ giúp Thảo tìm lại số tiền. Nhưng mọi người đã lục hết cặp của Thảo và tìm kiếm xung quanh cũng không thể tìm ra. 
- Chắc chắn là có người trong lớp mình lấy rồi - Mai, một học sinh trong lớp, nói với giọng đầy hoài nghi.
- Chúng ta phải tìm ra người đó. 
    Các bạn trong lớp, mỗi người một ý, ai cũng có những suy đoán riêng, nhưng đa phần ánh mắt của mọi người đều đổ dồn về phía Huy đang ngồi yên lặng ở góc lớp. Huy là một học sinh có hoàn cảnh rất khó khăn. Mẹ của cậu bị ốm phải chạy thận, bố cậu lại là một công nhân với thu nhập thấp. Mọi người trong lớp đều biết điều này, và vì thế, khi tiền quỹ lớp bị mất, không ít bạn cho rằng Huy chính là người đã lấy số tiền đó. 
- Chắc Huy thấy cần tiền nên mới lấy đấy. - bạn Duy nói. 
- Đúng rồi, Huy không xuống học thể dục! - một bạn bỗng lên tiếng, nhắc cho mọi người nhớ về việc tiết thể dục hôm nay Huy đã vắng mặt.
    Trước lời buộc tội của Duy và ánh mắt dò xét của các bạn học sinh trong lớp, Huy vội vã lên tiếng thanh minh: 
- Tớ không lấy! Nhà tớ khó khăn thật nhưng bố mẹ tớ đã dạy là không được lấy trộm đồ của người khác. Tớ không làm chuyện xấu xa như thế!
    Vừa nói, nước mắt của Huy vừa rơi xuống, nhưng những lời thanh minh của Huy chỉ làm cho mọi người càng thêm nghi ngờ. Huy đã không ngừng giải thích nhưng không ai lắng nghe cậu. Mọi người coi đó là những lời ngụy biện. Những ánh mắt dò xét từ bạn bè khiến Huy cảm thấy tội lỗi, sợ hãi, cậu không biết phải làm sao để chứng minh mình trong sạch.
    Trong khi mọi người tiếp tục xì xào bàn tán, thì Lan - lớp trưởng, một trong những học sinh thân thiết với Huy đã lên tiếng.
Huy không phải người lấy tiền.
    Lời khẳng định chắc nịch của Lan khiến mọi người thoáng im lặng, nhưng ngay lập tức, Duy thể hiện thái độ không đồng tình. Cậu bạn cảm thấy Lan đang bảo vệ bạn thân của mình một cách mù quáng.
- Đúng là Huy không xuống học thể dục, nhưng đâu phải mỗi Huy vắng tiết đâu. Tiết thể dục, tớ và Huy được cô chủ nhiệm gọi đi để giúp cô chuẩn bị cho đợt họp phụ huynh sắp tới. Chúng tớ có cô làm chứng. - Sau đó, Lan tiếp tục nói - Tớ sẽ báo lại cho cô chủ nhiệm, chúng ta không tự ý giải quyết như vậy. Quỹ lớp cũng đâu phải chuyện nhỏ đâu, đúng không?
    Mọi người nghe vậy cũng thấy đồng tình. Hơn thế, Lan lại còn là lớp trưởng, lời nói của Lan phần nào xua tan đi nghi ngờ trong lòng mọi người, dần dần các bạn cũng về chỗ để tiếp tục giờ tự học. Lan đi tìm cô chủ nhiệm để báo lại toàn bộ sự việc. Cô có vẻ rất buồn. Cuối tiết, cô lên lớp để nói chuyện với cả lớp:
- Trong lớp mình xảy ra chuyện như vậy, cô rất buồn. Tuy nhiên, cô tin rằng tất cả các bạn ở đây là những học sinh ngoan, chúng mình đã được học về tính trung thực rồi đúng không nhỉ? Vậy nên, nếu bạn nào có trót lỡ cầm nhầm tiền quỹ lớp thì hãy trả lại lớp nhé. Cô đợi tin tốt từ các em.
    Khi nghe cô nói chuyện, Lan để ý đến Hoàng - người bạn ngồi trên mình cứ cúi gằm mặt xuống, dáng vẻ rất sợ hãi. Thậm chí lưng bạn còn ướt đẫm mồ hôi. Lan chợt nhớ ra hai điểm đáng ngờ. Thứ nhất, tiết thể dục, khi cả lớp đã xuống sân, Lan có quay lại lớp lấy sổ đầu bài cho cô. Lúc đó, Lan đã gặp Hoàng ở cửa lớp, bạn nói bạn quên đồ nên lên lại lớp lấy. Thứ hai, khi tất cả mọi người đang xôn xao, chỉ có Hoàng là im lặng. Lan bỗng như hiểu được gì đó.
    Cuối giờ, khi lớp tan học. Chỉ có Lan với Hoàng cứ chần chừ mãi chưa về. Các bạn về hết rồi Lan mới bắt đầu nói chuyện:
- Hoàng, tớ cảm thấy có điều gì đó không ổn. Lúc học thể dục cậu lên lớp làm gì thế?
- Tớ, tớ đi vệ sinh - Hoàng hơi hoảng hốt.
- Sao lúc đó cậu bảo tớ là cậu quên đồ? - Lan chất vấn bạn.
    Hoàng lúc này mới phát hiện ra mình nói sai, chỉ biết im lặng. Lan lại tiếp tục nói ra suy nghĩ của mình:
- Khi mọi người bàn chuyện mất tiền, chỉ có cậu không nói gì hết. Khi cô nhắc nhở, tớ thấy cậu rất lo lắng. Cũng chỉ có cậu một mình ở lớp vào giờ thể dục. Vậy tớ có thể nghĩ là cậu đã lấy tiền quỹ lớp không?
    Hoàng gục đầu xuống, nhỏ giọng nói:
- Tớ xin lỗi, là tớ lấy. Tớ cần tiền để nạp game, nhưng ba mẹ tớ không cho, nên tớ đã nổi lòng tham khi nhìn thấy Thảo cất quỹ lớp trong balo. Nhưng nghe cô nói xong, tớ cũng định nhân lúc không có ai để trả lại tiền…
- Tuy cậu đã sai, nhưng cậu biết mình sai và có ý thức trả lại tiền là được. Hoàng ạ, cậu hãy đi nói với cô đi, và lần sau đừng như thế nữa.
    Hoàng đồng ý, cùng Lan đến gặp cô chủ nhiệm. Khi nghe hết câu chuyện của Hoàng, cô chỉ nhẹ nhàng xoa đầu bạn. Cô nhận lại tiền và bảo hai bạn đi về, cô sẽ thông báo lại lớp. Hoàng rất sợ cô sẽ công khai chuyện này, nhưng cũng đành ra về.
Ngày hôm sau, vừa hay có tiết sinh hoạt lớp. Cô chủ nhiệm đã đem số tiền trả lại Thảo:
- Chuyện của lớp mình ngày hôm qua, đã có bạn mang quỹ lớp đến trả cho cô. Cô rất tuyên dương bạn vì đã biết sửa sai, cũng tuyên dương Lan vì đã làm rất tốt nhiệm vụ của lớp trưởng. Tuy vậy, cô cũng muốn nói điều này, việc mất tiền không khiến cô buồn bằng việc cả lớp nghi ngờ bạn Huy chỉ vì hoàn cảnh của bạn. Tuy gia đình Huy có khó khăn, nhưng bạn luôn chăm chỉ học hành và giúp đỡ mọi người mà? Các em không thể nghi ngờ phẩm chất của bạn khác chỉ vì nhà bạn không có điều kiện được. Sau sự việc lần này, cô hi vọng các em hiểu được giá trị của lòng trung thực, cũng như không được đánh giá mọi chuyện một cách phiến diện. Các em hãy xin lỗi Huy vì những điều không phải mà các em đã nói với bạn, có được không nhỉ?
Cả lớp sau khi nghe cô nói đã hiểu ra được lỗi sai của mình, mọi người cùng đồng thanh xin lỗi Huy. Đặc biệt, Duy, người đã buộc tội Huy còn đến tận bàn của bạn để xin lỗi. Huy cũng vui vẻ vì đã được giải oan, còn Hoàng thì thấy biết ơn vì cô không công khai tên của mình trước lớp và thấy đây là bài học đắt giá, không bao giờ được phép phạm phải nữa.
Qua sự việc, các bạn trong lớp đã hiểu rằng đôi khi mọi thứ không phải như vẻ bề ngoài, và điều quan trọng là chúng ta phải có dũng cảm khi đối mặt với sự thật, nhận lỗi và sửa chữa sai lầm.

 

Đề 8: Em hãy viết bài văn nghị luận (khoảng 400 chữ) trả lời câu hỏi: Làm
thế nào để học sinh giải tỏa được áp lực học tập

Bài làm

Vào năm 2022, báo “Tuổi trẻ online” có đăng tải thông tin: “Ở bậc THCS và THPT tại Thành phố Hồ Chí Minh, có 12% học sinh cảm thấy bị stress, 22.58% em trong trạng thái lo âu, và 13% học sinh trầm cảm vì bài vở. Con số 13% như cảnh lời tỉnh khiến chúng ta cần suy nghĩ nhiều hơn về câu hỏi: Làm thế nào để học sinh giải tỏa được áp lực học tập? 
Vậy áp lực học tập là gì? Áp lực học tập là là sự căng thẳng về tinh thần do nhiều nguyên nhân khác nhau ở các bạn học sinh. Điều này có thể gồm áp lực điểm số cao, từ sự kỳ vọng của gia đình, thầy cô và chính bản thân các bạn học sinh tạo ra. 
Trước hết, áp lực học tập bắt nguồn từ việc các bạn học sinh chưa tổ chức, sắp xếp lịch học, vui chơi một cách hợp lý. Khi đối diện với những áp lực, nhiều bạn chưa mạnh dạn nói lên lòng mình với mọi người xung quanh. Không chỉ từ phía học sinh, áp lực học tập còn xuất phát từ những kỳ vọng trường top, điểm cao của cha mẹ dành cho con mình. Mục tiêu trường top, điểm cao đã trở thành sợi dây vô hình trói buộc, trở thành “hòn đá tảng” đè nặng lên vai các em. Đặc biệt, khối lượng kiến thức nặng trên trường cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình trạng này ở nhiều bạn học sinh. 
Áp lực học tập đã để lại nhiều hậu quả nặng nề đối với học sinh. Nó đã gây nên tình trạng stress, lo âu, mệt mỏi, khiến cho sự tập trung của các bạn học sinh bị giảm sút. Bị áp lực quá lớn cũng khiến các bạn mắc một số vấn đề về tâm lý như trầm cảm, rối loạn tinh thần, … ảnh hưởng đến việc học tập. Điều này còn khiến các bạn chán học, không hứng thú với việc học, học chống đối không có hiệu quả. 
Trước những hậu quả nặng nề mà áp lực học tập để lại, chúng ta cần làm gì để có thể giải tỏa được điều đó? Trước hết, mỗi học sinh cần lên cho mình một kế hoạch cụ thể, cân đối giữa việc vui chơi và học tập. Việc lên kế hoạch cụ thể, cân đối sẽ giúp các bạn học tập hiệu quả, giải tỏa được những áp lực, căng thẳng sau thời gian học tập dài. Đồng thời, khi gặp áp lực, các bạn cũng cần mở lòng chia sẻ với cha mẹ, thầy cô, bạn bè và những người đáng tin cậy. Điều này sẽ giúp bạn nhận được những lời khuyên hữu ích từ cha mẹ, thầy cô, … Trong quá trình học tập, học sinh cũng có thể áp dụng các giải pháp thư giãn như nghe nhạc, đọc truyện, đọc sách, vui chơi, xem phim, … Các hoạt động này sẽ giúp chúng ta cân bằng lại tâm lí, tránh việc học quá nhiều dẫn đến căng thẳng. 
Không chỉ đối với học sinh, gia đình cũng cần có những giải pháp thiết thực để đồng hành cùng con trong quá trình giải tỏa áp lực học tập. Mỗi cha mẹ cần phải biết lắng nghe, thấu hiểu hơn với con. Chỉ khi chúng ta biết lắng nghe, thấu hiểu, con trẻ mới có thể không ngần ngại mà mở lòng chia sẻ những áp lực mà bản thân chúng đang mắc phải. Không chỉ vậy, cha mẹ cũng nên dành cho con thời gian nghỉ ngơi không nên gò bó, ép buộc con trong việc học tập. Hơn thế, cha mẹ cũng không nên đặt kỳ vọng quá cao vào con trẻ. Bởi chỉ khi chúng ta không đặt kỳ vọng vượt quá sức, các em mới có thể bộc lộ được hết khả năng của mình, không quá bị ràng buộc bởi trường top, điểm cao. Đặc biệt, theo các chuyên gia khuyên rằng, cha mẹ cần làm bạn với con. Điều này là một trong những yếu tố quan trọng nhất giúp cha mẹ có thể đồng hành với con trong việc giải tỏa những áp lực học tập. 
Về phía nhà trường, các thầy cô cũng cần tổ chức các hoạt động vui chơi xen kẽ với việc học. Điều này sẽ giúp các em thoải mái, thư giãn sau những giờ học căng thẳng. Ngoài ra, việc điều chỉnh lại chương trình sao cho phù hợp với lứa tuổi cũng là một trong những giải pháp hiệu quả giúp các bạn học sinh có thể giảm bớt được áp lực mà học tập mang lại. Ở Thụy Sỹ, tại một lớp tiểu học, các thầy cô đã huấn luyện một chú chó để chơi với trẻ em. Thành viên đặc biệt trong lớp này đã giúp các em nhỏ giải tỏa được căng thẳng, bình tĩnh hơn trong các kì thi. Với những giải pháp như trên, tôi tin rằng với những giải pháp như trên, vào một ngày không xa, áp lực học tập sẽ không còn tồn tại ở học sinh. 
Như vậy, áp lực học tập là một trong những tình trạng cần được giải quyết kịp thời. Mỗi chúng ta cần có những nhận thức đúng đắn về tác hại to lớn mà vấn đề gây ra đối với học sinh và xã hội. Đồng thời, mỗi người cũng cần có những giải pháp thiết thực phòng ngừa và ngăn chặn tình trạng này. Có như vậy, trẻ thơ mới phát triển một cách lành mạnh và toàn diện, những vụ việc thương tâm do áp lực học tập gây ra mới không hiện hữu trong đời sống của các bạn học sinh

 

Đề 9: Em hãy viết một bài văn thuyết minh về một danh lam thắng cảnh ở địa phương em.

Bài làm

TRÀNG AN- BỨC TRANH THỦY MẶC GIỮA ĐẤT TRỜI CỐ ĐÔCó lẽ khi ai đặt chân tới Ninh Bình cũng không thể cưỡng lại trước vẻ đẹp của đất trời nơi đây. Thiên nhiên đã ưu ái ban tặng cho mảnh đất này quần thể danh thắng Tràng An- bức tranh thủy mặc hữu tình giữa đất trời cố đô. Vẻ đẹp ấy đã từng đi vào trang thơ của thi sĩ Lâm Bảo Hoàng: 
“Ai đẽo đá để thành Tam Cốc
Ai khơi nguồn để có Tràng An
Thu về trong gió miên man
Non xanh nước biếc như tranh họa đồ”
Vị trí địa lí 
Quần thể danh thắng Tràng An tọa lạc ở cực Nam đồng bằng Châu thổ sông Hồng, cách thủ đô Hà Nội chưa đầy 100km về hướng Nam. Quần thể danh thắng thuộc địa phận tỉnh Ninh Bình. Theo thống kê, vùng lõi di sản Tràng An- Tam Cốc có diện tích hơn 6172 ha, là vùng bảo vệ đặc biệt của danh thắng. Nhờ có vị trí địa lí đặc biệt, quần thể danh thắng Tràng An hiện lên với sự kết hợp của những dãy núi đá vôi uốn mình uyển chuyển cùng làn nước trong xanh tạo nên sự hài hòa, hữu tình cho thiên nhiên nơi đây. 
Vẻ đẹp thiên nhiên 
Được mệnh danh là “Hạ Long trên cạn”, quần thể danh thắng Tràng An được biết đến với hệ thống các hang động lớn nhỏ tuyệt đẹp. Trong số đó phải kể đến như hang Tối, hang Sáng, hang Nấu Rượu, động Thiên Hà, động Ba Cô, hang Bụt, … Đặc biệt, trải qua quá trình phong hóa hàng triệu năm, thiên nhiên đã tạo nên những nhũ đá vôi, thạch nhũ đa dạng với đủ các hình thù kì thú. Không chỉ hệ thống hang động, những dãy núi đá vôi uốn lượn mềm mại, nơi đây còn được biết đến là ngôi nhà chung của nhiều loài động thực vật. Hệ sinh thái trên cạn với hơn 600 loài thực vật, 200 loài động vật. Hệ sinh thái dưới nước có 30 động vật nổi và 40 loài động vật đáy. Tràng An có khoảng 310 loài thực vật bậc cao, quý hiếm như tuế đá vôi, sứa, lát, phong lan, … Đặc biệt, mảnh đất này còn là nơi cu trú của nhiều loài chim thú quý hiếm như sơn dương, báo gấm, chim phượng hoàng, … Quả thực, sự kết hợp hài hòa giữa non nước và hệ sinh thái đa dạng đã tạo nên vẻ đẹp “tuyệt sắc giai nhân” của quần thể danh thắng Tràng An. 
Những giá trị nổi bật của danh thắng Tràng An
Với thiên nhiên tươi đẹp cùng hệ sinh thái đa dạng, phong phú, từ lâu danh thắng Tràng An đã trở thành điểm du lịch nổi tiếng thu hút bạn bè trong và ngoài nước. Đối với tỉnh Ninh Bình nói riêng, Tràng An đã không chỉ góp phần giải quyết việc làm cho nhiều bà con tại địa phương mà còn thúc đẩy sự tăng trưởng kinh tế của tỉnh nhà. Đối với đất nước, địa điểm này đã góp phần tô đậm vẻ đẹp đất nước và con người Việt Nam, đưa Việt Nam trở thành điểm đến lí tưởng của nhiều du khách quốc tế. Năm 2014, UNESCO chính thức công nhận Quần thể danh thắng Tràng An là Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới. Chính điều đó đã góp phần khẳng định những giá trị to lớn mà quần thể danh thắng Tràng An mang lại cho Tổ quốc. 
Giá vé tham quan 
Tùy thuộc vào từng lứa tuổi, chiều cao, giá vé tham quan khu du lịch có sự chênh lệch nhất định. Giá vé đối với người lớn là 250.000VNĐ, trẻ em là 120.000VNĐ. Riêng đối với trẻ em cao dưới 1m được miễn phí vé tham quan. 

Quả thực, phải một lần được đặt chân đến nơi đây, được ngồi trên chiếc thuyền xuôi mái theo làn nước trong xanh, băng qua những hang động lớn nhỏ ta mới cảm nhận được hết vẻ đẹp của danh thắng Tràng An. Và bà Juha Hihunen một du khách người Phần Lan đã từng chia sẻ cảm nhận của mình: "Tôi đã rất ngỡ ngàng trước vẻ đẹp của Tràng An, một vùng non nước hùng vĩ, thiên nhiên hài hòa. Tôi chưa từng được chiêm ngưỡng khung cảnh nào đẹp đến thế". Vẻ đẹp ấy có lẽ đã để lại niềm thương nỗi nhớ của biết bao du khách thập phương đã từng một lần tận mắt chiêm ngưỡng. 
 

Đề 10: Viết một truyện kể sáng tạo với đề tài tự chọn, phỏng theo một truyện đã đọc (khoảng 1000 từ), có sử dụng các yếu tố miêu tả, biểu cảm.

Bài làm

ĐÓNG VAI TRƯƠNG SINH KỂ LẠI CUỘC ĐỜI MÌNH Trong cuộc đời, không có ai là chưa từng phạm phải sai lầm nhưng hầu hết đều có thể sửa chữa, chỉ cần đủ quyết tâm và sự kiên trì. Nhưng cũng sẽ có sai lầm dù có dùng cả đời để bù đắp cũng không thể cứu vớt được, chỉ còn lại sự đau buồn, xót thương, ân hận. Câu chuyện của cuộc đời tôi chính là như thế. Vì sự ghen tuông mù quáng đã khiến gia đình tôi đổ vỡ, con trai mất mẹ, còn tôi thì mất đi một người vợ hiền dịu.
Tôi là Trương Sinh. Gia đình họ Trương vốn chỉ có tôi là con trai độc nhất nên từ nhỏ tôi đã được cha mẹ vô cùng nuông chiều, “ ngậm thìa vàng ” mà lớn lên, cũng ỷ thế vì nhà mình giàu mà bỏ bê học hành. Đến tuổi dựng vợ gả chồng, khi ấy trong làng nổi tiếng có nàng Vũ Nương tuy nhà nghèo khó nhưng tính tình hiền dịu, nết na, xinh đẹp, được rất nhiều chàng trai theo đuổi. Vì cảm mến dung hạnh của nàng mà tôi đã nhờ mẹ đem trầu cau cùng trăm lạng vàng sang rước nàng về làm vợ. Vốn có tính đa nghi nên ngay cả khi vợ chồng chung chăn chung gối, tôi vẫn chưa thật sự tin tưởng Vũ Nương, vẫn phòng ngừa mọi chuyện. Nhưng nàng chẳng những không làm phụ lòng tôi mà còn khéo léo trong xử thế nên gia đình chưa bao giờ bất hòa.
Cuộc sống vợ chồng hạnh phúc chưa kéo dài được bao lâu, vì không có học thức nên tôi buộc phải đi lính. Ngày tôi đi, mẹ tôi nuốt nước mắt mà dặn rằng :
- Nay con phải tạm ra tòng quân, xa lìa dưới gối. Tuy hội công danh từ xưa ít gặp nhưng trong chỗ binh cách, phải biết giữ mình làm trọng, gặp khó nên lui, lường sức mà tiến, đừng nên tham miếng mồi thơm mà để lỡ vào cạm bẫy. Quan cao tước lớn nhường để người ta. Có thư thế, mẹ ở nhà mới khỏi lo lắng về con được.
Tôi nghe lời mẹ dặn, hết sức kính cẩn mà quỳ xuống đất. Còn Vũ Nương, nàng rót chén rượu đầy rồi dặn rằng :
- Chàng đi chuyến này, thiếp chẳng dám mong đeo được ấn phong hầu, mặc áo gấm trở về quê cũ, chỉ xin ngày về mang theo được hai chữ bình yên, thế là đủ rồi. Chỉ e việc quân khó liệu, thế giặc khôn lường. Giặc cuồng còn lẩn lút, quân triều còn gian lao, rồi thế chẻ tre chưa có, mà mùa dưa chín quá kì, khiến cho tiện thiếp băn khoăn, mẹ hiền lo lắng. Nhìn răng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét, gửi người ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn thức tâm tình, thương người đất thú ! Dù có thư tín nghìn hàng, cũng sợ không có cánh hồng bay bổng.
Nàng nói xong mà nước mắt đã lăn dài trên má khiến tất cả mọi người càng thêm xúc động. Vợ tôi vẫn cứ luôn hiền dịu, ân cần, chu đáo và khiến tôi bất ngờ như thế ! Khi ấy, tôi chỉ mong rằng, mẹ và vợ sẽ mãi khỏe và bình yên để chờ tôi trở về. Lạy mẹ thêm một lạy, tôi ra đi.
Ba năm ròng vào sinh ra tử, đã có lúc tưởng chừng như cuộc chiến này liệu sẽ không có hồi kết, nhiều lúc tưởng chừng như muốn bỏ cuộc. Nỗi nhớ gia đình cồn cào mỗi đêm khiến tôi không sao ngủ nổi, vừa giày vò nhưng cũng là một nguồn động lực to lớn khiến tôi càng thêm quyết tâm. Cuối cùng, giai đoạn gian khổ ấy cũng kết thúc. Ngày tôi được trở về, tôi cứ cứ nghĩ rằng chắc chắn sẽ hạnh phúc lắm bởi được chào đón bởi bàn tay của mẹ, cái ôm của vợ và nụ cười của đứa con trai vừa mới chào đời. Nhưng vừa trở về, tôi được nghe tin :Mẹ đã mất. Đau đớn, chua xót đến tận cùng.
Hôm sau, tôi dẫn bé Đản- con trai tôi ra thăm mộ mẹ. Thằng bé nhất định không chịu theo, nó gào khóc om sòm . Tôi mới dỗ nó rằng:
- Nín đi con, đừng khóc. Cha về, bà đã mất, lòng cha buồn khổ lắm rồi. Thằng bé ngây thơ nói :
- Ô hay !Thế ra ông cũng là cha tôi ư ? Ông lại biết nói, chứ không như cha tôi trước kia chỉ nín thin thít.
Lời thằng bé nói như sét đánh giữa trời quang, tôi giật mình, gạn hỏi. Rồi đứa nhỏ nói:
- Trước đây, thường có một người đàn ông đêm nào cũng đến, mẹ Đản đi cũng đi, mẹ Đản ngồi cũng ngồi, nhưng chẳng bao giờ bế Đản cả.
Nghe thấy thế, tôi đứng như chết lặng, cả người hóa đá. Tôi cố bình tâm, tin rằng đây không phải là sự thật. Chỉ tiếc là, những lời nói phát ra từ đứa trẻ ngây thơ này khiến tôi không thể không tin. Nó như nhát dao cứa dần, cứa dần vào tim gan tôi. Phải chăng Vũ Nương kia đã làm gì có lỗi với Trương Sinh tôi, phải chăng nàng đã phản bội tôi mà thất tiết với ai rồi ? Ba năm chiến đấu trong mòn mỏi, đổi lại đây là kết quả khi tôi trở về sao ? Chua xót, uất ức biết nhường nào !
Không thể kiềm chế nổi cảm xúc, về đến nhà, tôi mắng vợ một trận để hả giận. Vũ Nương lúc đầu ngạc nhiên, nàng trân trân mắt nhìn tôi mà rằng :
- Thiếp vốn con kẻ khó, được nương tựa nhà giàu. Sum họp chưa thỏa tình chăn gối, chia phôi vì động việc lửa binh. Cách biệt ba năm giữ một tiết. Tô son điểm phấn từng đã nguôi lòng, ngõ liễu tường hoa chưa hề bén gót. Đâu có sự mất nết hư thân như lời chàng nói. Dám xin một mực bày tỏ để cởi mối nghi ngờ. Xin chàng đừng một mực nghi oan cho thiếp.
Thế nhưng, những lời nói của nàng khi ấy tôi chẳng tin một lời nào. Tôi không nói cho nàng biết tôi nghe con trai nói dù nàng đã gạn hỏi, cũng chẳng hề để nàng thanh minh, mặc cho sự can ngăn của gia đình, tôi đuổi Vũ Nương ra khỏi nhà. Trước khi đi, nàng bất đắc dĩ nói :
- Thiếp sở dĩ nương tức vào chàng vì có cái thú vui nghi gia nghi thất. Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh mưa tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trước gió, khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nước thẳm buồn xa, đâu có thể lại lên núi Vọng Phu kia nữa.
Nói xong, nàng đứng dậy thay quần áo tắm rửa rồi ra đi. Chẳng ai ngờ đâu, ngày hôm sau tôi mới biết rằng nàng lại gieo mình xuống sông để chứng tỏ lòng trung trinh của mình. Lúc nghe tin, tuy trong lòng còn giận nhưng nghĩ đến tình nghĩa vợ chồng bao nhiêu năm qua, tôi tìm cách vớt thây nàng nhưng lại chẳng thấy đâu cả. Lòng ôm mối sầu hận, tôi chẳng thể yên giấc.
Bẵng đi một thời gian, vào một đêm khi trời đã về khuya, trong không gian im ắng chỉ còn nghe thấy tiếng côn trùng từ xa vọng lại. Tôi thắp ngọn đèn dầu hiu hắt ngồi xuống bên cạnh con trai. Nhìn căn phòng mà bỗng dưng cảm thấy trống trải, cô đơn, lạnh lẽo đến lạ. Chợt, bé Đản reo lên :
- A ! Cha Đản lại đến rồi kìa !
Tôi giật mình nhìn quanh khắp phòng nhưng lại chẳng thấy đâu cả. Điều tôi cảm nhận được chính là luồng gió đang thốc vào và tiếng côn trùng vọng lại ngày một rõ ràng hơn. Vốn tưởng thằng bé trêu đùa nhưng khi hỏi ra, thằng bé mới trỏ tay lên bóng của tôi trên vách tường rồi nói :
- Đây này !
Tôi như chết lặng, những dòng nước ấm nóng như chỉ đợi trực trào ra khỏi mắt. Hóa ra, vì không muốn con thiếu đi tình cha con nên chắc hẳn vợ của tôi đã nói với nó bóng trên vách là cha của nó. Mọi chuyện vỡ lở. Nếu như trước kia, khi hiểu lầm vợ mình bội bạc, tôi căm giận, phẫn uất bao nhiêu thì giờ lại hối hận bấy nhiêu. Nhưng hối hận giờ đã quá muộn rồi, tôi chẳng thể làm gì nữa. Vợ của tôi đã ra đi mãi mãi... Nhớ về quãng thời gian trước kia, nàng chưa từng khóc khi bên tôi nhưng kể từ ngày ấy, ánh mắt cuối cùng nàng nhìn tôi đau đớn, nàng đã khóc rất nhiều...Nhưng khi đó tôi không hiểu và cũng không muốn hiểu, vì sự ghen tuông đã diệt sạch đi lí trí trong tôi mất rồi.
Ngày tháng dần trôi, tôi cứ mãi sống với nỗi ân hận như thế. Cho đến một hôm, bỗng dưng có một người đến gặp tôi, tự xưng là Phan Lang. Nhưng điều khiến tôi băn khoăn ở chỗ, tôi không hề biết người này. Thế nhưng, người tên Phan Lang ấy lại đem đến cho tôi một tin giật gân khiến tôi chẳng hề quan tâm đến anh ta là ai và xuất thân từ đâu nữa : vợ tôi còn sống.
Tôi không dám tin. Thế rồi, anh ta đưa chiếc thoa vàng rồi kể về câu chuyện lưu lạc dưới thủy cung của vua Nam Hải rồi gặp vợ tôi, cùng nàng hàn huyên rồi nàng nhờ đưa cho tôi chiếc thoa này. Nghe anh ta nói, tôi vừa mừng vừa lo. Mừng vì có thể vợ tôi còn sống, tôi càng sợ rằng hi vọng vừa được nhen nhóm lên trong mình một lần nữa bị dập tắt bởi trò đùa ác ý. Phan Lang còn dặn hãy lập một đàn tràng giải oan ở bến Hoàng Giang- nơi vợ tôi gieo mình xuống thì nàng sẽ trở về.
Tôi đánh liều nghe lời. Với tôi, chỉ cần nàng có thể quay trở về, tôi sẽ làm đủ mọi cách. Tôi lập đàn tràng trong ba đêm ròng rã vẫn chưa thấy Vũ Nương xuất hiện. Sang đến ngày thứ tư, khi hi vọng trong tôi gần như đã cạn kiệt thì bỗng nhiên, tôi thấy một chiếc kiệu hoa rực rỡ xuất hiện giữ mặt nước mênh mông. Cả một khúc sông bỗng chói lóa, lung linh huyền ảo như ở một thế giới khác. Từ trong kiệu hoa, Vũ Nương bước ra, trên mình mang bộ y phục lấp lánh, nàng thật đẹp và rạng ngời. Thế nhưng, khi tôi cất tiếng gọi, nàng chỉ đứng dưới dòng sông mà nói vọng vào :
- Thiếp cảm ơn đức của Linh Phi, đã thề sống chết cũng không bỏ. Đa tạ tình chàng, thiếp chẳng thể trở về nhân gian được nữa.
Nói xong, nàng vén kiệu bước vào, cả đoàn kiệu hoa cứ thoắt ẩn thoắt hiện giữa sông rồi từ từ biến mất. Mọi thứ đã kết thúc thật rồi, chẳng còn cách nào có thể cứu vãn được nữa.
Đã nhiều năm trôi qua nhưng sai lầm ấy vẫn như con dao cứa dần vào lòng tôi, khiến chúng từ từ rỉ máu. Dù tôi của bây giờ có tốt hơn ngày xưa gấp vạn lần cũng không thể kéo Vũ Nương trở về bên tôi nữa. Cũng từ sai lầm ấy, tôi đã rút ra được những bài học sâu sắc cho mình, tôi sẽ cố gắng sống thật tốt, nuôi dạy bé Đản khôn lớn trưởng thành để nó sẽ không bao giờ phạm phải những sai lầm không thể sửa chữa như tôi, để nàng có thể phần nào yên tâm hơn nơi chín suối.


ĐỌC THÊM: TỔNG HỢP BÀI VIẾT MẪU TẤT CẢ CÁC DẠNG TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 9

Đăng ký khóa học và đọc thêm nhiều bài viết hấp dẫn khác của Học Văn Chị Hiên tại đây:

Fanpage Học Văn Chị Hiên
- Fanpage Học Văn Chị Hiên - THCS Lớp 6,7,8,9
Khóa học Phương pháp và luyện đề lớp 9
- Khóa học 20 ngày "chạy" Văn lớp 9

Tin liên quan