Hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc trong Vợ chồng A Phủ

Ngày 26/04/2022 17:37:49, lượt xem: 5072

Đề bài: Có ý kiến cho rằng: “Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc, đồng thời nhà văn chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm”.
Ý kiến của anh (chị) về nhận định trên.

 



Bài làm


“Công việc của nhà văn là phát hiện ra cái đẹp ở chỗ không ai ngờ tới, tìm cái đẹp kín đáo và che lấp của sự vật, để cho người đọc một bài học trông nhìn và thưởng thức”. (Thạch Lam) Thật vây, đời sống muôn màu muôn vẻ, đa dạng phong phú đến độ nhiều con người, hoàn cảnh, cảnh ngộ ta ít biết đến, ta không thể tin nổi có tồn tại. Nhà văn là những người đi xa hơn, hiểu biết rộng hơn với đặc trưng nghề nghiệp đã đem đời sống đó vào những trang viết của mình. Ta chưa từng biết đến những người nông dân khốn khó ở vùng biển cho đến khi đọc được “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu. Ta sẽ khó lòng mà hình dung hết nạn đói khủng khiếp năm 1945 cho đến khi được đọc những dòng miêu tả con người chân thực trong “Vợ nhặt” của Kim Lân. Văn học vị nhân sinh là vậy, cũng giống như về tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài, có ý kiến cho rằng: “Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc, đồng thời nhà văn chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm”. Câu nói khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sáng ngời của tác phẩm.
“Vợ chồng A Phủ” là truyện ngắn xuất sắc của tác giả Tô Hoài. Tác phẩm xoay quanh Mị và A Phủ, những con người là nạn nhân, cùng là hạt nhân đấu tranh chống lại cường quyền, bạo quyền miền núi của bọn phong kiến chúa đất bắt tay với thực dân xâm lược. Nhờ có chuyến đi lên vùng rẻo cao Tây Bắc tám tháng, cùng ăn ở với người dân, đồng thời đón nhận tình cảm đặc biệt của nhân dân, Tô Hoài viết tác phẩm này vừa như một lời món quà gửi lại đồng bào miền núi nghĩa tình, vừa thực hiện “sứ mệnh của các nhà văn hiện nay là chống lại cái ác” (Nguyễn Quang Thiều). Truyện được viết năm 1952, in trong tập “Truyện Tây Bắc” năm 1953. Vốn là người sử dụng lối văn phong trần thuật mộc mạc, đầy tính gợi hình gợi cảm và hóm hỉnh sinh động, kinh nghiệm sâu sắc, vốn từ giàu có, tư dung độc đáo cũng những góc nhìn thú vị và tài ba, Tô Hoài đã khẳng định phong cách của mình thông qua tác phẩm và cũng từ đó chinh phục bao trái tim độc giả bởi những giá trị cốt lõi về hiện thực, nhân văn, nhân đạo sâu sắc.
Nhận định cho rằng: “Qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, Tô Hoài đã dựng lên một bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc, đồng thời nhà văn chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm”. Đây là một nhận định phù hợp và chính xác với tác phẩm bởi nó đã nhắc đến hai giá trị cốt lõi quan trọng mà truyện ngắn và nhà văn hướng tới đó là giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo. “Bức tranh hiện thực đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc” là sự vất vả, phải chịu áp bức bóc lột của bọn phong kiến chúa đất điển hình là hoàn cảnh đi ở gạt nợ của Mị và A Phủ. Những bên cạnh đó, con người vẫn giữ gìn những bản sắc văn hoá tốt đẹp, tạo nên màu sắc Tây Bắc riêng biệt và độc đáo. Hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn, Tô Hoài vạch ra cho những con người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm một con đường đi đến tương lai tươi sáng hơn bằng hành động Mị cắt dây trói cứu A Phủ, cứu chính mình trong đêm đông.

 

ĐỌC THÊM Bộ mở bài ăn điểm dành riêng cho "Vợ chồng A Phủ"


Bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc trước hết được thể hiện qua giá trị hiện thực của tác phẩm. Giá trị hiện thực của tác phẩm văn học là toàn bộ hiện thực được nhà văn phản ánh trong tác phẩm văn học, tùy vào ý đồ sáng tạo mà hiện tượng đó có thể đồng nhất với thực tại cuộc sống hoặc có sự khúc xạ ở những mức độ khác nhau. Tuy nhiên, hầu hết hiện thực trong các tác phẩm văn chương đều là hiện thực được hư cấu. Nó có ý nghĩa phản ánh hiện thực của một thời kỳ trên nhiều phương diện khác nhau hơn là các hiện thực cụ thể. Nói về vấn đề này, Tô Hoài từng phát biểu: “Viết văn là một quá trình đấu tranh để nói ra sự thật. Đã là sự thật thì không tầm thường, cho dù phải đập vỡ những thần tượng trong lòng người đọc”. Điều đó cho thấy Tô Hoài luôn khao khát phản ánh đời sống lên trang viết, dẫu có trần trụi, nhiều đau thương thì vẫn phải là sự thật. “Vợ chồng A Phủ” được sáng tác vào sau chuyến thực tế của tác giả nên lẽ dĩ nhiên, nó được xây lên bởi các chất liệu hiện thực. Chính Tô Hoài trong một lần phỏng vấn đã kể lại: “Câu chuyện Vợ chồng A Phủ là câu chuyện hoàn toàn có thực. Tức là nguyên mẫu ở ngoài đời sống. Đợt ấy tôi đi công tác từ Tà Sùa sang Phù Yên (Sơn La). Ở Tà Suà tôi gặp một cặp vợ chồng người Mèo vào đúng dịp tết truyền thống của họ, tức khoảng tháng 11 âm lịch, trước tết Nguyên Đán của ta 1 tháng. Tết người Mèo kéo dài cả tháng. Tôi cùng đôi vợ chồng nhà kia đi ăn tết từ bản này sang bản khác. Ăn tết và uống rượu, rồi anh chồng kể chuyện. Anh kể về cuộc đời anh, cuộc đời chị vợ, về chuyện thống lý ở bản anh làm tay sai cho Pháp, rất tàn ác, cho nên anh phải đưa vợ chạy trốn đi nơi khác. Câu chuyện của đôi vợ chồng nọ cộng với vốn hiểu biết của tôi về đời sống người Mèo làm cho cốt truyện cứ sáng tỏ dần. Và tôi bắt tay vào viết.”
Trong “Vợ chồng A Phủ” chất liệu hiện thực đậm đặc nhất chắc chắn đến từ sự phơi bày cuộc sống cơ cực và những khốn khổ về vật chất, tinh thần của những con người nhỏ bé bất hạnh, điển hình là Mị. Ở đầu tác phẩm. Tô Hoài đã giới thiệu nhân vật Mị theo cách hết sức đặc biệt: “Ai ở xa về, có việc vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có một cô con gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”. Đoạn trữ tình ngoại đề cuốn hút, khơi gợi cho người đọc nhiều sự tò mò về nghịch lý giữa sự quyền thế của nhà thống lý và hình ảnh cô gái buồn rầu, câm lặng, lẻ loi: “Người ta thường nói: nhà Pá Tra làm thống lí, ăn của dân nhiều, đồn Tây lại cho muối về bán, giàu lắm, nhà có nhiều nương, nhiều bạc, nhiều thuốc phiện nhất làng. Thế thì con gái nó còn bao giờ phải xem cái khổ mà biết khổ, mà buồn”. Cô gái bị hoà lẫn vào những vật vô tri vô giác, thậm chí nếu cô không làm việc, có lẽ người ta cũng không chú ý đến sự tồn tại của cô. Trước cửa có một tảng đá đặt cạnh chuồng ngựa, hình ảnh của tảng đá ấy phải chẳng là tảng đá của số phận đang đè nặng lên Mị. Những ấn tượng ban đầu về nhân vật Mị làm cho bạn đọc bị lôi quấn, đi sâu thêm để khám phá con người và không gian truyện. Cách khơi gợi vấn đề đối lập làm đòn bẩy để Tô Hoài làm nổi bật số phận đau khổ, bất hạnh của người con gái vô cảm ấy, báo hiệu những diễn biến, những thay đổi, những bước ngoặt lớn ở phần sau của câu chuyện.
Mị vốn là người con gái đẹp và tài năng, là bông hoa có sắc, có cả hương của vùng núi Tây Bắc. Có biết bao chàng trai đi theo Mị, trai đứng nhẵn chân vách đầu buồng Mị. Mị có tài thổi lá hay như thổi sáo. Mị sống trong một gia đình nghèo khó. Cha mẹ Mị nghèo, lúc ấy nhau phải vay tiền nhà thống lý, mỗi năm phải trả lãi bằng một nương ngô. Đến khi mẹ Mị chết đi rồi, món nợ ấy vẫn chưa được trả hết. Mị chính là “tài sản quý giá nhất” trong nhà. Cũng chính vì một món nợ truyền kiếp từ khi cha mẹ mới cưới nhau mà Mị bị bắt làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí - một tên quan lại, địa chủ tham lam, xảo quyệt và tàn nhẫn ở Hồng Ngài. Khi mùa Tết dến, các các hoạt động vui chơi diễn ra nhộn nhịp, trai gái đánh pao, đánh quay, đêm đêm rủ nhau đi chơi. “Những nhà có con gái thì bố mẹ không thể ngủ được vì tiếng chó sủa. Suốt đêm, con trai đến nhà người mình yêu, đứng thổi sáo xung quanh vách”. Mị cũng đi chơi với người yêu hàng đêm. “Một đêm khuya, Mị nghe tiếng gõ vách. Tiếng gõ vách hò hẹn của người yêu. Mị hồi hộp lặng lẽ quơ tay lên thì gặp hai ngón tay lách vào khe gỗ, sờ một ngón thấy có đeo nhẫn. Người yêu của Mị thường đeo nhẫn ngón tay ấy. Mị bèn nhấc tấm vách gỗ. Một bàn tay dắt Mị bước ra. Mị vừa bước ra lập tức có mấy người choàng đến, nhét áo vào miệng Mị rồi bịt mắt, cõng Mị đi.”
Bị bắt làm dâu gạt nợ là bi kịch, cũng là bước ngoặt đầu tiên của cuộc đời Mị. Nhà văn đặt Mị vào hoàn cảnh bi đát, để từ đó nhân vật phải trải qua những sóng gió của cuộc đời mình. Sau lần bỏ trốn và tự tử không thành, Mị trở về nhà thống lý. Tô Hoài không kể lại kĩ quá trình Mị bị nỗi khổ nơi địa ngục trần gian từ từ đè nén, từ từ áp bức, từ từ rút sạch sinh khí trong con người Mị như thế nào. Nhà văn chỉ khái quát bằng một câu văn ngắn đầy xót xa: “Ở lâu trong cái khổ, Mị quen khổ rồi”. Quen đến độ “lần lần, mấy năm qua, mấy năm sau, bố Mị chết. Nhưng Mị cũng không còn tưởng đến Mị có thể ăn lá ngón tự tử nữa”. Giờ đây Mị đã không còn nghĩ đến tự do, không còn nghĩ đến những khao khát, ước mơ ngày trước. Phải chăng Mị đã hoàn toàn bị khuất phục trước tiền quyền, thần quyền và bạo quyền? Giống như con chim bị chặt đi đôi cánh, giống như nàng tiên cá mất đi giọng hát của mình, Mị giờ chỉ còn là cái xác không hồn, một cỗ máy làm việc, là thân trâu ngựa cày cuốc cho nhà thống lý. Mị bị đày đọa, hành hạ về mặt thể xác bằng những công việc luôn tay, tuần hoàn không biết điểm dừng: “Mị cúi mặt, không nghĩ ngợi nữa, mà lúc nào cũng chỉ nhớ đi nhớ lại những việc giống nhau, tiếp nhau vẽ ra trước mặt, mỗi năm mỗi mùa, mỗi tháng lại làm đi làm lại: Tết xong thì lên núi hái thuốc phiện, giữa năm thì giặt đay, xe đay, đến mùa thì đi nương bẻ bắp, và dù lúc đi hái củi, lúc bung ngô, lúc nào cũng gài một bó đay trong cánh tay để tước thành sợi. Bao giờ cũng thế, suốt năm suốt đời như thế”. Lời kể của nhà văn chân thực quá, chân thực như thể những gì cô Mị phải trải qua như một cuốn phim đầy đau khổ đang chạy trước mắt người đọc. “Bây giờ thì Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con ngựa”. Thế nhưng sự thực nghiệt ngã còn kinh khủng hơn bởi con trâu con ngựa còn được đổi từ cái tàu ngựa nhà này sang nhà khác, còn có thời gian được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, còn “đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày”. Sự bóc lột dã man của giai cấp thống trị, của bọn phong kiến chúa đất đã được lật lẩy hoàn toàn. Chúng coi con người không bằng súc vật. Trong mắt chúng chỉ có tiền, quyền chứ mạng người rẻ rúm có là gì.
Không chỉ là về thể xác, Mị còn bị hành hạ cả về mặt tinh thần: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Mị câm lặng. Câu văn cho thấy mức độ tăng tiến “mỗi ngày càng không nói”. Một con người rõ ràng hoạt bát, thích thổi lá, xinh đẹp, trái tim tràn đầy yêu thương giờ đây lại câm lặng. Ngôn ngữ là thứ để con người kết nối với đồng loại. Không nói ra được, mọi phiền ưu, sẽ tích tụ và chất chứa thành chất độc ăn mòn sức sống, tâm hồn con người. Không nói là biểu hiện của những tầng tầng lớp lớp xiềng xích trên người Mị. Trong nhà thống lý thì Mị nói được với ai cơ chứ? Mị chỉ có “quyền” nghe và làm theo mọi sự sai bảo chứ nào có quyền phản kháng, quyền nói lên những suy nghĩ của mình. Hình ảnh Mị bị ví như “con rùa lùi lũi nuôi trong xó cửa” thật chua xót và uổng phí cho một bông hoa đẹp của núi rừng. Chi tiết đắt giá nhất để thể hiện sự hành hạ về tâm hồn mà Mị phải chịu đựng có lẽ nằm ở chi tiết căn buồng Mị nằm. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay”. Căn buồng là hiện thân của nhà tù, của địa ngục trần gian. Lỗ ô cửa sổ nhỏ vốn là nơi để Mị tìm thấy liên kết với thế giới tươi đẹp bên ngoài giờ cùng mù mịt “lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không biết là sương hay là nắng”. Tương lai của Mị cũng mù mịt như cái màu trăng trắng ấy. “Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi”. Mọi sự phản kháng, hy vọng đều đã bị vùi dập. Mị cam chịu tồn tại chứ không phải sống bởi trước mắt Mị đâu còn con đường khác để đi.

 

ĐỌC THÊM NGHỊ LUẬN VĂN HỌC | SỨC SỐNG TIỀM TÀNG CỦA NHÂN VẬT MỊ


Xuất hiện sau Mị ở phần nửa cuối phần một của tác phẩm, A Phủ được biết tới là một chàng trai mồ côi, có sức mạnh cơ bắp, chính trực. A Phủ xuất hiện bất ngờ trong đám đánh nhau của trai làng bên với A Sử. A Sử vào làng tìm đám chơi có tiếng sáo, tiếng khèn nhưng vì đến muộn nên phải đứng ngoài. A Sử và đám bạn đã tìm cách gây sự và bị A Phủ đánh cho một trận nên thân. Sau khi đánh nhau với A Sử, A Phủ bị khép vào tội đánh con quan và bị đem về xử tội, phạt vạ. Cuộc xử tội A Phủ một lần nữa tô đậm bức tranh hiện thực đen tối bị tiền quyền, thần quyền, cường quyền cai trị. A Phủ phải chịu trói quỳ giữa nhà cho bọn tay sai đánh tới tấp hết trận này đến trận khác, đến nỗi thân tàn ma dại: “mắt A Phủ sưng lên, môi và đuôi mắt dập chảy máu”, “đầu gối sưng bạnh lên như mặt hổ phù”. Cứ xong một lượt đánh các quan lại chửi, lại hút, khói thuốc phiện tuôn ngập các cửa sổ, cứ như thế “suốt chiều, suốt đêm, càng hút, càng tỉnh, càng đánh, càng chửi, càng hút”. Qua bữa tiệc phạt vạ, nhà văn đã vạch trần bản chất bất công, thối nát của bọn thống trị phong kiến và số phận thảm thương của người dân miền núi trước Cách mạng. Sau khi bị đánh đập tàn bạo, A Phủ bị bọn thống lí, chức việc trói chặt vào kiếp đời nô lệ. Đầu tiên chúng buộc tội cho A Phủ vì đánh con quan nhưng làng tha cho tội chết, chỉ bắt nộp vạ. Sau đó thống lí vừa gán nợ cho A Phủ một cách trắng trợn, vừa bày cách để A Phủ trả nợ, cái cách vô lí và vô nhân đạo: “Mày không có trăm bạc thì tao cho mày vay để mày ở nợ. Bao giờ có tiền giả thì tao cho mày về, chưa có tiền thì tao bắt mày làm con trâu con ngựa nhà tao. Đời mày, đời con đời cháu mày tao cũng bắt thế, bao giờ hết nợ tao mới thôi”. Như vậy dưới hình thức cho vay này, A Phủ chính thức trở thành tôi đòi cho nhà chúa đất phong kiến. Từ sau đám xử kiện, A Phủ chấp nhận làm con ở gạt nợ cho nhà thống lí, không còn nhớ đến những tháng ngày theo bạn đi chơi hội các làng, suốt năm, suốt tháng vùi đầu vào công việc, bị bóc lột tàn tệ. Trong một lần để hổ ăn mất bò vì mải bẫy nhím, A Phủ bị phạt trói đứng vào cột. Nhà thống lý nói rằng trói đến khi nào tìm thấy con hổ ăn mất trâu thì thôi. Đúng là quá vô lý. Lấy mạng của con người để so với con trâu. Cảm nhận trước đó của Mị quả thật là không sai. Ở nhà thống lý, con người còn không bằng con trâu, con bò, không bằng súc vật.
Khi xây dựng giá trị hiện thực cho tác phẩm, Tô Hoài đã vẽ lại chân thực cả những phong tục, tập quán, văn hoá của nhân dân đồng bào miền núi. Rộn ràng nhất trong tác phẩm phải để đến đoạn Tô Hoài miêu tả Tết ở Hồng Ngài. Mùa xuân, Hồng Ngài ăn tết, ăn mừng đón chào một năm mới. Người dân Hồng Ngài ăn Tết ngay sau khi thu hoạch vụ mùa xong xuôi. Không gian màu xuân đón tết có sự hòa trộn đầy đủ của màu sắc, âm thanh, các hoạt động đều rộn ràng, tràn đầy sức sống: màu của cỏ gianh vàng ửng, của những chiếc váy hoa xòe như con bướm sặc sỡ, trẻ con chơi đùa cười ầm trước của, bữa cơm Tết cúng ma đón năm mới với tiếng làm lễ, bữa rượu tiếp ngay bữa cơm bên bếp lửa bập bùng, tiếng sáo gọi bạn tình vang vọng và những đôi nam nữ rong ruổi đi chơi,... Những phong tục đặc biệt như bắt vợ, cúng trình ma dù tốt hay xấu cũng là một phần của văn hoá Tây Bắc. Nhãn quan phong tục cho Tô Hoài bắt trọn và tái hiện lại tất cả những gì đặc sắc nhất của thiên nhiên, con người Tây Bắc, tạo cho tác phẩm một bức phông nền sống động, hấp dẫn cho bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc.
Có thể nói, giá trị hiện thực là thông qua Mị và A Phủ, tác giả đưa những gì tàn bạo, độc ác, vô lý nhất của xã hội bất công hiện ra trước mắt người đọc. Cùng với màu sắc Tây Bắc, nhãn quan phong tục, Tô Hoài đã thể hiện được một phần của bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc. Như Balzac đã từng nói: “Nhà văn là người thư kí trung thành của thời đại.” Tô Hoài xứng đáng được làm “người thư kí” cho những con người vùng rẻo cao Tây Bắc xa xôi.
“Một nghệ sĩ chân chính phải là một nhà văn nhân đạo từ trong cốt tủy”. Đó là theo Sê khốp. Còn nữ văn sĩ Pháp Elsa Trisolet lại cho rằng: “ Nhà văn là người cho máu.” Bởi các tác phẩm nghệ thuật suy cho cùng thì cùng để phản ánh và phục vị con người, hướng về con người. Mà con người thì luôn mong cầu những gì tốt đẹp hơn, hạnh phúc hơn. Trong “Vợ chồng A Phủ”, bên cạnh thể hiện bức tranh đời sống, “nhà văn chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm”. Đó chính là sức sống tiềm tàng của Mị và A Phủ được tác giả cài cắm trong tác phẩm, đặc biệt là lần Mị cắt dây trói cho A Phủ, cũng là giá trị nhân đạo cốt lõi trong tác phẩm.
Trở lại thời gian đầu bị bắt về, “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc”, hai tròng mắt Mị đỏ hoe. Mị không chấp nhận số phận bị bắt làm dâu gạt nợ, không chấp nhận số phận làm thân trâu ngựa và bị giam cầm, mất đi tự do. Lần khóc này của Mị là biểu hiện của sự phản kháng số phận những chưa bất lực, bởi ngay sau đó, Mị đã có hành động bỏ trơn đầy mạnh mẽ: Trốn về nhà, trên đường về hái một nắm lá ngón. Mị định rằng sẽ về từ biệt cha rồi ăn lá ngón chết đi cho xong. Hành động bỏ trốn và tìm đến cái chết thể hiện sự cương quyết phản kháng của Mị. Mị không muốn được sống và quyết định cuộc đời của mình. Nếu không, Mị chọn cách chết để giải thoát chứ không muốn sống lay lắt, vật vờ, khổ sở. Tìm đến cái chết nhưng lại là biểu hiện của lòng ham sống. Sống là phải sống đúng nghĩa, nếu không thà chết khi cuộc đời này không còn bất kỳ ý nghĩa nào nữa. Đây là những tín hiệu đầu tiên chứng tỏ rằng trong trái tim của cô gái này, nhất định vẫn ẩn chứa một lòng ham sống rất lớn.
Trong đêm tình mùa xuân, sức sống tiềm tàng một lần nữa bùng cháy trong lòng cô gái trẻ nhờ tác nhân của tiếng sáo và men rượu. Khi nửa tỉnh nửa mê là lúc Mị ý thức rõ nhất thân phận mình. Mị lại nhớ về ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi…), và quan trọng hơn là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau”. Mị tìm say để quên đi thực tại nhưng càng say lại càng tỉnh, càng ý thức sâu sắc hơn về thân phận khốn khổ của mình. Cũng chính men rượu làm bùng cháy những đốm tàn của lòng ham sống còn vương lại. Men rượu cho Mị dũng khí để nhìn lại quá khứ tươi đẹp và hiện thực tăm tối. Nếu tiếng sáo là tác nhân xuyên suốt thì men rượu là tác nhân quan trọng cho những diễn biến tiếp theo trong tâm hồ Mị. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận. Cho nên trong thời khắc ấy, trong lòng Mị đầy rẫy những mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì nghĩ đầu tiên là được chết ngay đi: “Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không còn buồn nhớ lại nữa.” Lần thứ hai ý nghĩa phải chết xuất hiện trong Mị. Đây là biểu hiện của lòng ham sống, một cuộc sống tự do, tự chủ tâm hồn và thể xác mình chứ không phải chỉ là tồn tại. Nhưng rồi ở lần này, cường quyền mà đại diện là A Phủ một lần nữa xuất hiện dập tắt mọi hy vọng của Mị.
Phải đến đêm đông, nhà văn mới thực sự chỉ cho nhân vật con đường giải thoát triệt để nhất. Mùa đông trên núi cao dài và lạnh lắm, Mị có một thói quen không thể bỏ đó là sưởi lửa mỗi buổi đêm. Với Mị, bếp lửa là người bạn, là tri âm, là tri kỷ, là thứ hiếm hoi mang tới cho Mị một nguồn sáng ấm áp, giúp Mị vượt qua sự lạnh giá, cô đơn trên rẻo cao này. Dù đã có nhiều lần, A Sử về và nhìn thấy Mị sưởi lửa, hắn đạp Mị ngã lăn nhưng Mị vẫn nhất quyết không bỏ thói quen này. Mị dường như vô cảm và câm lặng hơn trước, Mị càng ngày cần giống như một đồ vật, một cỗ máy trong nhà thống lý Pá Tra. Khi chứng kiến tình cảnh bị trói đứng của A Phủ, mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong tâm hồn Mị. Bởi trong hoàn cảnh của Mị, cô gái này thực sự đã quá khổ để có thể đồng cảm với nỗi khổ của người khác, thậm chí, trái tim của Mị bây giờ còn mất hết những cảm xúc, chỉ còn một trái tim đóng băng, lạnh giá vô cùng. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt: “Đêm ấy A Phủ khóc. Một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai hõm má đã xám đen”. Và giọt nước mắt kia là giọt nước cuối cùng làm tràn ly nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã từng khóc, nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được. A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra hoàn cảnh của mình, xót thương cho chính mình. Và Mị đã nhớ lại mọi chuyện, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, mới có thể thấy có người nào đó cũng khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi…Người kia việc gì mà phải chết thế”. Mị có nghĩ đến mình nhưng tình thương người đã lớn hơn cả thương thân. Hơn nữa sức sống trong Mị còn bị vòng xiềng xích cuối cùng gông lại: “thần quyền”. Mị không cảm thấy sợ hãi, chỉ cảm thấy một điều duy nhất bây giờ: “Cha con chúng nó thật độc ác”. => Mị nhận ra và ý thức sâu sắc hơn bao giờ hết sự độc ác của bọn phong kiến chúa đất gây nên đau khổ cho Mị, cho A Phủ và cho những con người khốn khổ ở Hồng Ngài. Đến mãi tận sau này, trốn sang Phiềng Sa, trong một lần thấy A Sử, Mị vẫn còn sợ. Nỗi sợ hay nói đúng hơn là sự ghê tởm lũ đày đọa con người. Mị cầm dao cắt dây trói cho A Phủ. Những ý nghĩa cho Mị dũng khí cắt dây trói nhưng khi cắt xong Mị vẫn sợ. “Mị cũng hốt hoảng, Mị chỉ thì thào được một tiếng “Đi ngay...”, rồi Mị nghẹn lại”. Lòng ham sống đã trỗi dậy. Bây giờ nếu Mị ở lại sẽ là cái chết. Chắc chắn, không có đường lui. Sau những tích tắc khựng lại ngắn ngủi, Mị chạy theo A Phủ. Đó hoàn toàn không phải bản năng, mà là lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị. Mị như tìm lại được con người thật, một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận. Đến bây giờ, tất cả những nỗi sợ hãi như cường quyền, bạo quyền hay thần quyền đều tan biến, chỉn còn lại trong Mị là một lòng ham sống vô cùng mãnh liệt, trào sôi. Hai người dắt tay nhau đi, chạy trong đêm tối, mặc kệ tất cả những khổ ải nơi Hồng Ngài này đề tới Phiềng Sa, gặp cán bộ A Châu, hai người được giác ngộ cách mạng và kết hôn với nhau, trở thành những chiến sĩ kiên trung trong công cuộc bảo vệ Tổ quốc.

 

ĐỌC THÊM NGHỊ LUẬN VĂN HỌC | SO SÁNH GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO TRONG "VỢ NHẶT" VÀ "VỢ CHỒNG A PHỦ"


Ít được nhắc đến hơn nhưng sức sống của nhân vật A Phủ cũng là một điểm sáng trong tác phẩm, góp phần để nhà văn thể hiện tư tưởng của mình. Khi bị bắt trói đứng thể mạng cho con bò đã mất, đứng trước cái chết đang cận kề, A Phủ ban đầu không chấp nhận, đến đêm anh “cúi xuống, nhay đứt hai vòng mây” nhưng đó chỉ là sự cố gắng vô ích, vì sáng mai ra cổ anh lại thêm thòng lọng, dường càng chặt hơn, càng tàn bạo hơn. Bị trói, bị bỏ đói, gắng gượng trong vô vọng suốt mấy ngày đêm, chàng thanh niên khỏe mạnh ngày nào nay đã không còn chút sức lực, chỉ biết trút dòng nước mắt tuyệt vọng. Đến khi được Mị cắt dây trói, A Phủ như một cái xác trực “ngã khuỵu xuống, không bước nổi”. Nhưng khi khát vọng sống một lần nữa được đánh thức mãnh liệt, A Phủ đã quật sức chạy, quyết tâm vùng chạy để thoát khỏi gông cùm, xiềng xích và đến Phiềng Sa, chàng trai gan góc, táo bạo ấy đã trở thành tiểu đội trưởng du kích.
Như vậy có thể thấy rằng, cách mà nhà văn vạch ra cho người lao động thoát khỏi đau khổ chính là thúc đẩy họ tự đứng lên, mạnh mẽ giải thoát cho chính mình. Không ai có thể cứu họ khỏi hoàn cảnh áp bức nếu họ không có nội lực bật dậy mạnh mẽ. Biểu hiện cao nhất, sâu sắc nhất của giá trị hiện thực đã được thể hiện ở phần truyện này.
Thông qua việc bóc tách các phần của tác phẩm, ta đã thấy rõ “bức tranh hiện thực về đời sống của đồng bào dân tộc miền núi Tây Bắc” và cách “nhà văn chỉ ra con đường giải phóng cho người lao động có cuộc đời tăm tối và số phận bi thảm”. Ẩn trong bề sâu của giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo đó là tấm lòng của một người nghệ sĩ biết rung cảm thực sự trước đời sống, biết sử dụng năng lực văn chương của mình để thâu tóm là phóng chiếu lại toàn bộ những gì mình cảm nhận vào trang viết. Lối viết tự nhiên, đậm đà màu sắc Tây Bắc, văn phong giản dị mà hấp dẫn kết hợp cùng lối xây dựng tâm lý nhân vật theo từng cấp bậc tăng tiến, phát triển dần đều đã tạo nên sức hút khó cưỡng của tác tác phẩm với bạn đọc.
Với truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” cùng tập truyện Tây Bắc, nhà văn Tô Hoài đã hoàn thành điều mong mỏi của mình, đó là quay lại và trả niềm thương, nỗi nhớ cho mảnh đất nơi đây. “Tác phẩm chân chính không kết thúc ở trang cuối cùng, không bao giờ hết khả năng kể chuyện khi câu chuyện về các nhân vật đã kết thúc. Tác phẩm nhập vào tâm hồn và ý thức của bạn đọc, tiếp tục sống và hành động như một lực lượng nội tâm, như sự dằn vặt và ánh sáng của lương tâm, không bao giờ tàn tạ như thi ca của sự thật (Ai-ma-tốp). Đúng như vậy, câu chuyện “Vợ chồng A Phủ” với bức tranh hiện thực và giá trị nhân đạo khép lại nhưng đồng thời mở ra trong ta những xúc cảm đặc biệt. Tác phẩm cho tôi biết thêm về những mảnh đất mình chưa từng đặt chân tới, hiểu thêm về những con người mình chưa bao giờ gặp để rồi tâm hồn tôi được rung cảm với biên độ lớn hơn. Cũng từ tác phẩm, tôi yêu thêm đất nước mình, yêu thêm những con người cùng chung bọc trứng, yêu thêm những tác phẩm văn học của nước nhà.

 

Đồng hành cùng chị trong khóa học 10 ngày "chạy" Văn cùng chị Hiên - PIONEER 10 tại đây để đạt 8+ Văn trong kì thi THPT Quốc Gia!

 

Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH:

Fanpage:  Học văn chị Hiên

Youtube: Học văn chị Hiên - Youtube 

IG: Học văn chị Hiên

Tiktok: Học văn chị Hiên

Tin liên quan