Đăng Ký Học
Ngày 02/10/2021 23:25:06, lượt xem: 10103
Đề bài:
Nhà văn Nguyễn Đình Thi cho rằng: “Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi” (Trích “Nhà văn nói về tác phẩm”, NXB Văn học, 1998)
Anh/chị hiểu điều đó thế nào? Bằng hiểu biết của mình về đoạn trích “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, anh/chị hãy làm sáng tỏ ý kiến trên.
NHỮNG ĐIỂM MỚI TỪ "ĐẤT NƯỚC" CỦA NGUYỄN KHOA ĐIỀM
“Cánh cò bay lả bay là,
Bay từ cửa phủ bay ra cánh đồng”.
Lời ca dao ấy là hình hài phôi thai đầu tiên của đất nước trong tâm thức mỗi người con đất Việt. Cùng với lịch sử hàng ngàn năm dựng nước và giữ nước của dân tộc, thi ca song hành và bồi đắp nên diện mạo ngày càng hoàn chỉnh cho đất nước. Cùng đóng góp vào công cuộc ấy, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã viết trường ca “Mặt đường khát vọng” nổi bật nhất là chương V mang tựa đề - “Đất Nước”. Trích đoạn chương V ấy là tiếng lòng thiết tha của thi sĩ yêu nước và mang đến một góc nhìn, một cách cảm mới mẻ về Tổ quốc. Nhận xét về đoạn trích, có ý kiến cho rằng: “Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”.
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn bởi sự kết hợp đan xen giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người tri thức về đất nước, con người Việt Nam. “Đất Nước” là đoạn trích thuộc phần đầu chương V của trường ca “Mặt đường khát vọng”. Trường ca gồm chín chương được hoàn thành tại chiến khu Trị Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974 viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ vùng đô thị tạm chiếm miền Nam về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh chống đế quốc Mĩ xâm lược. Đoạn trích “Đất Nước” là một đoạn thơ hay viết về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại.
Nói về điều tạo nên sức cuốn hút của từng tác phẩm, nhà thơ Nguyễn Đình Thi chia sẻ: “Tác phẩm văn học lớn hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”. Ông đề cập đến hai vấn đề cốt lõi của văn chương đó là sức hấp dẫn của tác phẩm và sự sáng tạo trong nghệ thuật. Khi đọc một tác phẩm văn học, bạn đọc sẽ luôn trong tâm thế mong chờ những điều mới mẻ, những điều họ chưa biết. Như vậy, sáng tạo và sự thu hút luôn là hai yếu tố song hành với nhau không thể tách rời. Tuy nhiên mảnh đất để các nhà thơ khai thác thì có giới hạn. Cùng một đề tài luôn có nhiều tác giả cùng cày xới, xoáy sâu, mở rộng, tìm tòi. Điều đó đòi hỏi mỗi người cần tìm cho riêng mình một “cách nhìn nhận mới, một tình cảm mới”.Chỉ khi có những khám phá và thể hiện mới mẻ về con người, cuộc đời, nhà văn mới tạo nên tác phẩm lớn, làm phong phú thêm cho nền văn học và tác phẩm mới tìm được chỗ đứng trong lòng độc giả. Khi suy tư về đề tài đất nước, một đề tài muôn thuở trong văn học, chắc hẳn Nguyễn Khoa Điềm cũng có những trăn trở ấy. Thế nhưng, điều thành công là khi tìm hiểu về trích đoạn “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm nói riêng và trường ca “Mặt đường khát vọng” nói chung, ta thấy một đất nước hoàn toàn khác nhưng không lạ, mới mẻ nhưng rất thân quen từ cách tác giả lý giải nguồn cối đất nước, cho đến những thành tố tạo nên đất nước và cách tác giả nói về chủ nhân của đất nước. Một đất nước được nhìn nhận một cách toàn diện, nhiều chiều và xoáy sâu vào bề dày văn hóa, cốt cách tinh thần dân tộc.
ĐỌC THÊM DẪN CHỨNG LIÊN HỆ BÀI THƠ "ĐẤT NƯỚC" - NGUYỄN KHOA ĐIỀM
Chín câu thơ mở đầu đoạn trích, tác giả đưa ra những lý giải mới mẻ về nguồn cội của đất nước:
“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…”
Điều đầu tiên làm nên sự khác biệt và sức hút cho “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm chính là tính mộc mạc, đơn giản nhưng vẫn sâu sắc trong cách tác giả trả lời cho câu hỏi “Đất Nước có từ bao giờ?”. Không dùng các cột mốc ngày tháng năm cụ thể, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định đất nước có từ rất lâu đời bởi đất nước xuất hiện trong những câu chuyện cổ tích, trong phong tục tập quán, trong văn hóa dân gian. Đất nước được gói gọn trong miếng trầu, kết tinh trong hạt gạo nhỏ bé, tưởng chừng như vô lý nhưng lại mang những suy tư sâu xa. Bởi những gì lớn lao đều bắt đầu từ những điều nhỏ bé ấy. Biển khơi rộng lớn cũng hình thành từ những giọt nước li ti. Tác giả còn coi đất nước như một sinh thể sống, có sinh ra và lớn lên. Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước lớn lên giữa lòng nhân dân, đất nước ở ngay trong cuộc sống của mỗi gia đình, mỗi chúng ta, từ lời kể chuyện của người mẹ, miếng trầu của bà, các phong tục tập quán quen thuộc cho đến tình nghĩa thuỷ chung của cha mẹ, hạt gạo ăn hàng ngày, cái kèo cái cột trong nhà... Tất cả những điều đó làm cho Đất nước trở thành cái gần gũi, thân thiết, bình dị trong cuộc sống hàng ngày của con người cũng làm cho tác phẩm hấp dẫn người đọc “bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”. “Đất Nước có từ ngày đó” là ngày nào ta không rõ nhưng chắc chắn ngày đó là ngày ta có phong tục tập quán, có văn hóa mà có văn hóa nghĩa là có đất nước. Đúng như lời Bác dặn trước lúc đi xa: "Rằng muốn yêu Tổ quốc mình, phải yêu những câu hát dân ca. Dân ca, ca dao là đặc trưng văn hóa của Việt Nam, muốn yêu Đất Nước trước hết phải yêu và quý trọng văn hóa nước nhà”. Bởi văn hóa chính là Đất Nước. Thật đáng yêu đáng quý, đáng tự hào biết bao lời thơ dung dị, ngọt ngào của Nguyễn Khoa Điềm.
Không chỉ có cái nhìn mới mẻ khi lý giải nguồn cội đất nước, tác giả còn có cách định nghĩa đất nước vô cùng độc đáo. Ông tách riêng hai thành tố đất và nước để định nghĩa về đất nước:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Khăn thương nhớ ai
Khăn rơi xuống đất.
Khăn thương nhớ ai
Khăn vắt lên vai.
Khăn thương nhớ ai
Khăn chùi nước mắt.
Đèn thương nhớ ai
Mà đèn không tắt.
Mắt thương nhớ ai
Mắt ngủ không yên.
Đêm qua em những lo phiền
Lo vì một nỗi không yên mọi bề.
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đất nước là không gian rất thân thuộc, gần gũi với cuộc sống con người, tồn tại cả trong những không gian riêng tư, thầm kín nhất của tình yêu đôi lứa. Đất nước là không gian mênh mông của núi rừng biển cả. Đất nước còn là không gian sinh tồn hết sức đời thường của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ. Trong cách nhìn về không gian đất nước, Nguyễn Khoa Điềm nghiêng nhiều hơn về không gian riêng tư, không gian đời thường. Nhà thơ nhìn đất nước từ cự ly gần và đã phát hiện ra một Đất Nước hết sức thân quen, một đất nước dễ thương với tất cả mọi người. Cùng viết về đề tài đất nước, Nguyễn Đình Thi trong bài “Việt Nam quê hương ta” chọn cách miêu tả non sông Tổ quốc kì vĩ:
“Việt Nam đất nước ta ơi
Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn
Cánh cò bay lả rập rờn
Mây mờ che đỉnh Trường Sơn sớm chiều”
Khác với các nhà thơ cùng thế hệ - thường tạo một khoảng cách khá xa để chiêm ngưỡng và ngợi ca đất nước, với các từ ngữ, hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, có tính chất biểu tượng. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn điểm nhìn gần gũi để miêu tả một đất nước tự nhiên, bình dị mà không kém phần thiêng liêng tuổi đẹp. Hình ảnh đất nước trong đoạn thơ lên muôn màu muôn vẻ, sinh động lạ thường, lắng đọng trong vẻ đẹp đời sống sinh hoạt mang đậm dấu ấn con người Việt. Đó là cách tác giả đào sâu mở rộng chủ đề đất nước quen thuộc. Mọi điều mà ông viết nên đều gần gũi, thân quen, đều là những thứ được công nhận hiển nhiên trong đời sống, không có gì xa lạ.
ĐỌC THÊM Ý NGHĨA NHAN ĐỀ CÁC TÁC PHẨM THƠ LỚP 12
Một điểm nữa trong sự cảm nhận mới mẻ về đề tài quen thuộc - đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đó là ông khẳng định chủ nhân của đất nước chính là nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”
Những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp thêm một dáng núi mà là câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào sông núi quê hương để làm nên một đất nước thủy chung, tình nghĩa. Đó là những hòn trống mái có được từ sự hóa thân của những cặp vợ chồng yêu nhau để làm nên một Đất Nước nồng thắm, nhân tình. “Gót ngựa Thánh Gióng”, “chín mươi chín con voi” đều là những hình ảnh thấm đẫm tinh thần yêu nước và tính cội nguồn. Những từ “đi qua”, “để lại”, “góp mình” được sử dụng tinh tế thể hiện cách nhìn bình dị mà tự hào về sự thiêng liêng của sông núi, về khí phách, sức mạnh con người Việt Nam. Núi sông mang hồn người và hóa linh thiêng. Dòng Cửu Long Giang, núi bút non nghiên thể hiện truyền thống hiếu học, truyền thống văn hiến lâu đời, là biểu tượng của vẻ đẹp trí tuệ, đạo đức và cả đời sống tâm linh con người Việt Nam. Con cóc con gà, những con vật bình thường trong đời sống sinh hoạt ấy cũng góp cho đất nước trở nên thơ mộng, trữ tình. Đâu chỉ có ngọn núi mang tên Bà Đen, Bà Điểm, ông Đốc, ông Trang? Trên khắp đất nước, những con người bình dị đã hóa thân vào sông núi để lại cho đời những cái tên bất tử. Những động từ “góp” được điệp lại nhiều lần gợi sự khám phá mới mẻ nhưng mang tính nhân văn sâu sắc. Nhân dân chính là người nghệ sĩ đã tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm đẹp thêm một thiên nhiên vốn có. Tấm bản đồ đất nước được phác họa từ bắc chí nam trở thành tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi ký thác tâm hồn, ước mơ, khát vọng của nhân dân. Đất nước vừa thiêng liêng, cao cả, vừa gần gũi. Trên không gian địa lý mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm ra bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam.
Nhân dân là chủ nhân thực sự của đất nước không chỉ trên bình diện địa lý mà còn trên bình diện lịch sử:
“Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”
Vẫn là lời thơ nhẹ nhàng, tâm tình, thủ thỉ, nhà thơ gửi gắm những suy tư nặng trĩu. Nguyễn Khoa Điềm đưa ta trở về quá khứ lịch sử hào hùng của dân tộc, bốn nghìn năm dựng nước và giữ nước, hầu như không bao giờ nguội tắt ngọn lửa đấu tranh chống giặc ngoại xâm. Nghĩ về bốn ngàn năm của đất nước, nhà thơ đã nhận thức được một sự thật đó là: Người làm nên lịch sử không chỉ là những anh hùng nổi tiếng mà còn là những con người vô danh bình dị. Nhìn vào lịch sử bốn nghìn năm đất nước, nhà thơ không nhắc lại các triều đại, kể tên các bậc vua chúa hay những vị anh hùng dân tộc đã từng rạng danh sử sách, văn chương, mà biểu dương sự cống hiến của muôn vàn những con người bình thường trong việc xây dựng, vun đắp và bảo vệ đất nước. Ở đó, vẻ đẹp tâm hồn, tính cách Việt Nam được khám phá và ngời sáng. Họ là vô vàn những con người bình dị, vô danh. Họ chính là nhân dân - những con người bình thường mà phi thường, giản dị, mộc mạc mà cao cả, kỳ vĩ. Chính nhân dân đã tạo dựng, gìn giữ đất nước trải qua bao thời đại. Chính những con người bình thường, giản dị trong cuộc sống hàng ngày là những con người phi thường mang trong mình dòng máu anh hùng. Điểm mới của Nguyễn Khoa Điềm trong cái nhìn về đất nước qua thời gian lịch sử là đã thấy được vai trò không thể thay thế của những con người bình dị, vô danh mặc dù “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng chính họ mới là người “làm nên Đất Nước muôn đời”.
Ở bình diện văn hóa nhân dân âm thầm giữ gìn và để lại cho thế hệ sau mọi giá trị vật chất và tinh thần: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, bản sắc văn hóa các vùng miền, các thành quả lao động:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”
Điệp từ “họ” cùng với cách nói: “họ giữ – họ truyền – họ truyền – họ gánh...” cho thấy được sự đóng góp tích cực của nhân dân vì sự phát triển của đất nước. Chính nhân dân mang đến giá trị vật chất: là hạt lúa ta trồng qua bao đời, là ngọn lửa chuyền qua năm tháng sưởi ấm bao căn bếp, là nguồn thủy nông, vườn ruộng dồi dào cho con cháu đời sau “trồng cây hái trái”. Không chỉ vậy, họ còn mang đến những giá trị tinh thần quý báu: họ “truyền giọng điệu mình cho con tập nói”, bảo vệ ngôn ngữ dân tộc, họ để lại phong tục, tập quán “gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân”. Họ tạo dựng chủ quyền và truyền cho thế hệ sau truyền thống yêu nước đánh giặc: “Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dân/ Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”: khẳng định như một chân lý. Tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ của văn hóa văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao.
ĐỌC THÊM NHẬN ĐỊNH LÍ LUẬN VĂN HỌC VỀ THƠ
Có thể thấy, điều đặc biệt của trích đoạn “Đất Nước” là tác giả đem đến những góc nhìn mới mẻ về về một đề tài vốn dĩ đã rất quen thuộc với cá nhân bạn đọc. Góc nhìn nhận rất “Nguyễn Khoa Điềm” ấy đã mang đến một hình ảnh đất nước có từ lâu đời; đất nước gần gũi thân thương không xa với; đất nước là đất nước của toàn thể nhân dân. Chính nhà thơ cũng từng nói: “Đất Nước với các nhà thơ khác là của những huyền thoại, của những anh hùng, nhưng với tôi là của những con người vô danh, của bản thân”. “Đất Nước” đã trở thành một trích đoạn mang giá trị lớn “hấp dẫn người ta bởi cách nhìn nhận mới, tình cảm mới về những điều, những việc mà ai cũng biết cả rồi”. Khắc họa lên hình ảnh đất nước mới mẻ như thế, Nguyễn Khoa Điềm vận dụng khéo léo các chất liệu văn học, văn hóa dân gian cùng với ngôn từ gần gũi, mộc mạc, đơn sơ. Qua “Đất Nước” ta thấy được một phong cách đậm nghệ thuật đậm chất trữ tình và suy tư của tác giả.
Tác giả Vũ Quần Phương từng nghẹn ngào bày tỏ: “Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự đồng hiện những gì gần gũi nhất, thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ, hiện tại và tương lai; trong thời gian và không gian, trong lịch sử và truyền thống văn hoá... Ở Nguyễn Khoa Điềm lòng yêu nước là yêu nhân dân, yêu những con người đã viết nên lịch sử, đã sản sinh ra văn hóa, đã phát kiến địa lý mà mở rộng biên cương bảo vệ lãnh thổ” . Đọc trích đoạn “Đất Nước” chúng ta như nghe, như cảm thấy cội nguồn dân tộc, cội nguồn văn hóa đang thấm vào tận từng mạch hồn ta, dòng máu ta. Điều đó càng làm ta thêm yêu thêm quý quê hương Tổ quốc mình.
Để tham khảo thêm nhiều bài viết hay, và chạy nước rút hiệu quả, hãy đăng ký sở hữu các đầu sách và đăng ký khoá học của HVCH nhé!
Link đặt sách: https://bit.ly/2ZPn5bZ
Link đăng kí khóa VIP lớp 12: http://bit.ly/KHOAHOCVANVIP2K4
Link đăng kí khóa VIP lớp 11: https://bit.ly/KHOAHOC2K5
Link đăng kí khoá VIP lớp 10: http://bit.ly/khoahocvan10
Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH:
Fanpage: Học văn chị Hiên
Youtube: Học văn chị Hiên - Youtube
IG: Học văn chị Hiên
Tiktok: Học văn chị Hiên
Tin liên quan