Diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ (Vợ Nhặt)

Ngày 21/03/2022 18:23:07, lượt xem: 5104

Đề bài: Phân tích diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ trong tác phẩm “Vợ nhặt”. Từ đó làm nổi bật giá trị nhân đạo mà Kim Lân muốn thể hiện.

 

Bài làm diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ (Vợ Nhặt)


Pautôpxki - một nhà văn người Nga từng nhận xét rằng “An-đéc-xen đã lượm lặt những hạt trơ trên luống đất của những người dân cày, ấp ủ chúng nơi trái tim ông rồi gieo vào những túp lều, từ đó lớn lên và nảy nở những đóa hoa thơ đẹp, chúng an ủi trái tim của những người cùng khổ”. Ở Việt Nam tôi đã bắt gặp một An-đéc-xen như thế mang tên Kim Lân. Một người một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn. Và trên những trang văn cay xè khói bếp hương ruộng đồng ấy là những bông hoa đang đua nhau bừng nở. Bà cụ Tứ với những diễn biến tâm trạng phức tạp càng chứng tỏ bà là một bông hoa chan chứa tình yêu, lòng bao dung và cả sự đồng cảm bung tỏa hương thơm khắp cả tác phẩm. Và cũng từ bông hoa ấy, Kim Lân đã gửi gắm những giá trị nhân đạo sâu sắc.
Kim Lân một trong những cây bút truyện ngắn tài năng của văn học Việt Nam hiện đại. Một cây bút thâm canh trên mảnh đất về nông thôn và người nông dân lam lũ, hồn hậu, chất phác mà giàu tình yêu thương. Truyện ngắn “Vợ nhặt” chính là trái ngọt sau vụ thâm canh trên mảnh đất ấy. Và cũng là truyện ngắn xuất sắc nhất của Kim Lân được in trong tập “Con chó xấu xí”. Tiền thân của truyện ngắn này là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” – được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám nhưng dang dở và mất bản thảo. Sau khi hòa bình lập lại (năm 1954), ông đã dựa vào một phần truyện cũ để viết truyện ngắn này. Do đó tác phẩm không chỉ là kết quả của một quá trình suy ngẫm, gọt giũa về cả nội dung và nghệ thuật mà còn mang âm hưởng sự lạc quan của thời đại mới.
Kim Lân đã xây dựng thành công nạn đói kinh hoàng năm 1945 khi mà “Trên thân mình còn dính một chút da /Dù chưa chết đã bốc mùi tử khí”. Cái đói, cái nghèo là vậy nhưng không át được vẻ đẹp của con người, tình người. Trên nền của cái đói ấy, bà cụ Tứ - một người mẹ nông dân chịu nhiều đắng cay thiệt thòi trong cuộc sống hiện như một ngọn lửa ấm áp - tiêu biểu cho vẻ đẹp tâm hồn Việt với tấm lòng nhân ái, bao dung. Bà xuất hiện ở giữa thiên truyện qua ngòi bút miêu tả chân thực của Kim Lân với hình ảnh của một người mẹ đã già, sức cùng lực kiệt. Nếu như vợ chồng nhà Tràng xuất hiện mang theo nét khôi hài thì bà cụ Tứ lại được Kim Lân “tung ra” với dáng vẻ của một người mẹ nghèo khổ, ốm yếu. Trong cái u ám của ngày đói, cái chạng vạng của chiều hôm tê tái, dáng đi “lọng khọng” và tiếng ho “húng hắng” của bà đã ám ảnh người đọc. Bà là một người mẹ nghèo khổ, góa bụa, chồng và con gái đều đã chết. Bà ở vậy nuôi con, gia cảnh thì nghèo khổ. Với những nét khắc họa đầu tiên đã cho ta thấy dáng dấp của một người mẹ nghèo khổ, già nua, còm cõm, luôn trĩu nặng những lo toan về cuộc sống.
Trong cái cảnh đói khát của một người đã sắp sửa “gần đất xa trời” dường như đã mất hết sức sống, chỉ đợi ngày về bên kia với chồng và con gái. Nhưng kì diệu thay, từ khi người con dâu mới xuất hiện đã làm thay đổi mọi thứ trong bà, dường như lại có hi vọng để sống, sống quãng cuối cuộc đời hạnh phúc hơn.

 

ĐỌC THÊM VỢ NHẶT | Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt…


Ban đầu khi trở về nhà, bà rất ngạc nhiên khi nhìn thấy một người phụ nữ lạ mặt xuất hiện trong nhà mình. Chính sự xuất hiện của người đàn bà ấy làm cho người mẹ ấy ngổn ngang bao tâm trạng, vừa ngạc nhiên, vừa tủi thân, mừng vừa lo. Trước hết là tâm lý ngạc nhiên. Bà ngạc nhiên vì sự đon đả khác lạ của Tràng, bà băn khoăn quái lạ sao hôm nay thằng con lại ra tận ngõ đón mình, ngạc nhiên vì người đàn bà lạ ở trong nhà. Bởi thế đôi chân bà theo con mà cứ “đứng sững lại”, có lúc cứ “phấp phỏng”. “Phấp phỏng” có nghĩa là tâm lý bất an, lo lắng, băn khoăn, không biết điều gì đón đợi mình phía trước. Nếu như anh cu Tràng sau những giây phút “chợn” thì anh ta đi thẳng vào niềm vui, tâm lý phát triển theo chiều thẳng đứng. Còn bà cụ Tứ thì sau giây phút ngạc nhiên của bà là một tâm lý phức tạp, tâm lý phát triển theo đường cong. Căn nhà tuềnh toàng rách nát của bà bấy lâu nay chỉ có bà và anh con trai, họ mạc thì đã thất tán nên sự xuất hiện của người đàn bà lạ kia quả là một sự kiện. Hàng loạt những câu hỏi nghi vấn dồn dập trong óc bà “Quái! Sao có người đàn bà nào đứng trong nhà mình thế nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng U? Không phải con cái Đục mà ai đấy nhỉ?”. Thực ra sự ngạc nhiên của bà cụ Tứ cũng là sự ngạc nhiên của biết bao người, từ xóm ngụ cư đến Tràng vẫn không tin nổi. Nhưng thực sự mà nói, một người từng trải như bà sống mấy chục năm trên cõi đời này, bà là người giàu kinh nghiệm. Hơn nữa việc con cái lớn lên, muốn thành thất thành gia thì không người mẹ nào lại không nhạy cảm trước chuyện hệ trọng đó của con. Nhưng ở đây ta thấy nạn đói đã làm cho người mẹ mất đi sự nhạy cảm ấy. Chính vì vậy sự ngạc nhiên đó kéo dài rồi đến lúc bà không dám tin đó là sự thật, bà khẽ “hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn nhưng hình như nó lại nhoèn ra mãi”. Tuy nhiên thái độ của Tràng cùng không khí thiêng liêng của gia đình và câu mở lời của Tràng “Nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ” thì bà cụ mới hiểu ra cơ sự, bà không ngạc nhiên nữa cũng không giận dữ lại càng không vui mừng mà lòng bà càng trở nên trăm mối tơ vò. Bà vừa hờn tủi, xót xa cho mình lại vừa thương con thắt lòng.
Khi hiểu ra cơ sự, bà cụ Tứ “cúi đầu nín lặng”. Trong lòng bà chợt trào lên biết bao nỗi niềm, là sự tủi hờn, là cảm xúc vừa mừng, vừa lo. Kim Lân dùng hai chữ “Cúi đầu” mang đến cho người đọc một cảm nhận xót xa: đằng sau cái cúi đầu ấy có gì đó vừa uất nghẹn, vừa xót xa, vừa cay đắng. Lòng người mẹ đa cảm ấy bỗng thấy xót xa, tủi thân tủi phận. Bà buồn vì tự thấy mình chưa làm tròn bổn phận của người mẹ, buồn vì đến một đám cưới nhỏ cũng không lo được cho thằng con trai của mình. Bởi cuộc đời của một người mẹ không chỉ sinh con ra, nuôi con lớn lên mà còn có trách nhiệm gây dựng gia đình cho con, chăm lo cháu chắt, còn bà chỉ có hai bàn tay trắng: “Chao ôi! Người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì …”. Nhà văn đã bỏ lửng suy nghĩ của bà bằng ba dấu chấm. Ba dấu chấm như là những nốt lặng trong tâm hồn người mẹ mà ở đó sự tủi thân tủi phận dâng trào hơn bao giờ hết. Ở đây, Kim Lân đã để nhân vật của mình khóc: “Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà đã rỉ xuống hai dòng nước mắt”, đó là dòng nước mắt của tủi hờn, cơ cực của cuộc đời và cũng là những giọt nước mắt đã cạn kiệt vì cuộc đời mẹ đã khóc quá nhiều. Từ “rỉ” miêu tả giọt nước mắt ít ỏi, khó khăn. Dường như bà cụ Tứ đang phải kìm nén cảm xúc của chính mình, bao nhiêu tủi phận, cay đắng, xót xa như nghẹn lại trong lòng khiến bà không thể khóc. Hình ảnh “giọt nước mắt” trong lần miêu tả thứ nhất của bà cụ Tứ khiến người đọc đắng lòng bởi số kiếp nghèo khổ, khốn khó, tội nghiệp của con người. Biết bao nhiêu cơ cực của cuộc đời đã chất chứa, dồn tụ và ứ nghẹn trong dòng nước mắt hiếm hoi, ít ỏi ấy.
Từ đó tâm lý bà cụ chuyển nỗi tủi thân thành lòng xót thương. Bà xót thương cho người phụ nữ đã theo không con trai mình về nhà “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được”. Bà thừa hiểu có nằm mơ thì thằng con mình cũng chẳng cưới được vợ. Mà người ta có cưới vợ thì cũng phải cưới một cách hiển hách, còn Tràng lại đi nhặt vợ. Nói như vậy không có nghĩa là bà khinh thường người con dâu mà ngược lại trái tim của người mẹ ấy bao dung hơn bao giờ hết. Bà tỏ ra rất gần gũi và chân tình “Nhìn người đàn bà đứng vân vê tà áo đã rách bợt”, mà “lòng đầy xót thương”. Chính tình cảm ấy đã xóa đi rất nhiều mặc cảm cho người con dâu. Trả lại danh dự cho người phụ nữ “mang tội theo trai” (Kim Lân). Biết bao nhiêu suy nghĩ, đã tự an ủi và trấn an mình nhưng biết bao âu lo trong lòng người mẹ già vẫn cứ canh cánh. Những trăn trở ấy có căn nguyên bắt đầu từ tình thương của người mẹ dành cho con của mình: “Biết chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không?”
Trái tim nhân ái của người mẹ đã mách bảo bà phải đồng ý cho cuộc tình duyên ấy: “Thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Ca dao Việt Nam có câu:
“Trồng cây những muốn cây xanh
Nuôi con những muốn con thành thất gia”
Chuyện con cái thành thất thành gia là điều vui, sao mẹ chỉ “mừng”! Phải chăng ám ảnh về nạn đói đã lấn át đi niềm vui của mẹ? Làm sao một người làm mẹ có thể vui được khi hạnh phúc, tương lai các con đang bị cái đói bủa vây. Đó cũng là câu nói chân thành chứa đựng những tình cảm sâu sắc của người mẹ làm cho không khí gia đình đã thiêng liêng lại càng thiêng liêng hơn. Câu nói đó còn bao chứa vẻ đẹp của tấm lòng nhân hậu, sự yêu thương cưu mang đùm bọc của bà dành cho người con dâu. Bà an ủi cô con dâu: “Kể có ra làm được dăm ba mâm thì phải đấy, nhưng nhà mình nghèo, cũng chả ai người ta chấp nhặt chi cái lúc này. Cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá…nước mắt cứ chảy ròng ròng”. Tiếng khóc lúc này không còn là sự kìm nén mà còn là sự giãi bày. Bà khóc để sẻ chia lòng mình, để tìm được sự thông cảm từ các con. Nhưng thật đặc biệt là lúc này anh Tràng đã đi ra ngoài, chỉ còn lại không gian riêng giữa bà Tứ và nàng dâu. Điều này đã cho thấy bà Tứ không chỉ thương con trai, thương bản thân mình mà còn thương người đàn bà xa lạ. Lời nói giản dị, chân chất của một người mẹ hiền cũng là minh chứng cho sự bằng lòng của bà dành cho hôn sự của con. Bà nhìn cô con dâu, bằng tất cả sự xót thương chứ không hề coi thường. Tấm lòng nhân ái bao la và cao thượng đó của mẹ thật đáng quý biết bao!

 

ĐỌC THÊM NGHỊ LUẬN VĂN HỌC | BÀ CỤ TỨ - NHÂN VẬT ĐIỂN HÌNH CHO NGƯỜI PHỤ NỮ VIỆT NAM


Trong tình cảm người mẹ, sự yêu thương và vui mừng lại đi kèm nỗi lo lắng. Làm sao không lo cho được khi mà nạn đói đang diễn ra, cái chết đang cận kề. Đời bà thì đã già, có chết cũng chẳng tiếc nuối gì, nhưng còn các con dù sao thì cuộc đời vẫn còn dài nhưng liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói này không? Rồi bà nghĩ về cuộc đời dài dằng dặc của bà, ông lão, cô con gái út, bóng tối như trùm lên hai con mắt của bà, bà nghĩ liệu cuộc đời con bà có khấm khá hơn cha mẹ nó hay không. Bằng tấm lòng nhân đạo bao dung của mình, nhà văn không cho phép nhân vật của mình tuyệt vọng. Người mẹ là chỗ dựa tinh thần cho người con, bà cụ Tứ không giúp gì được cho đôi vợ chồng son về vật chất nhưng bà là chỗ dựa tinh thần cho các con. Tục ngữ Việt Nam có câu “Người sống đống vàng”, còn Kim Lân khi viết truyện ngắn này đã nung nấu: “Khi viết về con người năm đói, người ta thường viết về con người chỉ nghĩ đến cái chết. Tôi muốn viết về con người không nghĩ đến cái chết mà chỉ nghĩ đến cái sống. Đã sống thì phải sống cho ra cuộc sống con người”. Có lẽ vì vậy mà Kim Lân đã để bà cụ Tứ thổi sức sống vào các con bằng triết lý dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. Triết lý ấy cũng là kinh nghiệm sống của bà, sự từng trải của một người mẹ đã kinh qua bao khó nhọc trong đời. Chính triết lý ấy đã làm bừng lên sức sống, bừng lên tia hi vọng và làm ấm lòng đôi vợ chồng son. Đó cũng là lời động viên chí tình, chí nghĩa mà bà muốn nhen lên trong lòng con sức mạnh vượt qua nạn đói.
Tâm lý của bà cụ Tứ đổi thay tích cực sau đêm tân hôn của đôi vợ chồng son. Sáng hôm sau, khi mới ngủ dậy, hạnh phúc của con làm bà vui hơn, hi vọng hơn. Bà dậy sớm cùng con dâu thu dọn nhà cửa như để đón chào một cuộc sống mới tươi vui hơn “làm ăn có cơ khấm khá hơn” đang mở ra ở phía trước. Dáng vẻ, tâm thế của bà nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác hẳn ngày thường. Tràng nhận rõ sự biến chuyển khác thường đó “Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”. Bữa ăn ngày đói được Kim Lân miêu tả thật thê thảm: “Bữa cơm ngày đói trông thật thảm hại. Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo, nhưng cả nhà đều ăn rất ngon lành”. Bữa cơm đầu đón nàng dâu không có sơn hào hải vị, không của ngon vật lạ mà chỉ có những gì thê thảm nhất của sự khốn cùng: mẹt rách, rau chuối, muối, cháo… Nhưng sự thiếu thốn về vật chất ấy lại được bù đắp về mặt tinh thần bởi cả gia đình ấy đang có thêm một thành viên mới, một hạnh phúc mới. Bởi vậy “cả nhà đều ăn rất ngon lành”
Trong không khí gia đình vui vẻ, đầm ấm, hạnh phúc, bà cụ Tứ đã thêm một lần truyền động lực sống cho các con. Bao trùm không khí bữa ăn vẫn dào dạt tình người. Bà cụ Tứ chắt chiu từng chút niềm vui, cố gắng tạo ra không khí hòa hợp, vui vẻ. Bà vừa là người thắp lửa và cũng là người truyền lửa. Thắp lên những niềm vui, lạc quan vào cuộc sống và truyền cho con cái những lạc quan ấy để các con hướng về tương lai. “Bà cụ vừa ăn vừa kể chuyện làm ăn, gia cảnh với con dâu. Bà lão nói toàn chuyện vui, toàn chuyện sung sướng về sau này”. Điều này chứng tỏ người mẹ ấy rất lạc quan, có niềm tin vào tương lai tươi sáng. Đói khát không thể quật ngã được người mẹ nông dân có niềm tin sắt đá “ai giàu ba họ ai khó ba đời” ấy. Câu chuyện đàn gà mà mẹ mang đến trong bữa ăn như một luồng sinh khí mới làm bữa ăn càng trở nên đầm ấm: “Khi nào có tiền ta mua lấy đôi gà… Này ngoảnh đi ngoảnh lại chả mấy mà có ngay đàn gà cho mà xem…”. Từ “đôi gà”, thành “đàn gà” là sự lạc quan, niềm tin mãnh liệt của người mẹ vào tương lai. Chính bà lão gần đất xa trời đang tìm cách nhen nhóm niềm tin, niềm hi vọng cho các con. Bà tin vào sự sinh sôi sẽ lấn át sự hủy diệt, sự sống sẽ lấn át cái chết. Cũng như chúng ta luôn tin vào đôi vợ chồng son này, rồi họ cũng sẽ tự sinh tồn và vượt qua nạn đói để sinh con đàn cháu đống cho giống nòi Việt Nam mãi mãi xanh tươi. Đây chính là chi tiết thể hiện niềm tin của bà cụ vào tương lai, tin vào một tương lai tốt đẹp của đôi vợ chồng son. Và cũng chính câu chuyện này đã thổi hồn vào cuộc đời của Tràng và người vợ nhặt một luồng sinh khí mới, đưa họ vượt qua “ranh giới giữa sự sống và cái chết” để tiếp tục một cuộc đời mới trên cái nền u ám của nạn đói.
Nhưng niềm vui của bà cụ thật tội nghiệp khi miếng cháo cám trở nên đắng chát và nghẹn bứ trong cổ. Lúc này cái đen tối của hiện tại, cái mờ mịt của tương lai trở nên rõ rệt hơn bao giờ hết, và mọi hi vọng, mọi niềm vui cũng tan tành chỉ trong chốc lát. Bà tự hào vì nồi “chè khoán” mà thực ra là nồi cháo cám để đãi nàng dâu mới đã khiến người đọc cảm động đến ứa nước mắt vì tình cảm của người mẹ nghèo khổ ấy. Bà tự hào bởi “xóm ta khối nhà chả còn cám mà ăn đấy”. Vậy là nhà bà “sang” nhất xóm, “giàu có” hơn nhà người. Niềm tự hào ấy sao nghe chân thành mà đáng thương làm sao. Bà cụ tươi tỉnh trù tính câu chuyện làm ăn, gắng hết sức để thắp lên cho hai con ngọn lửa của niềm tin, lạc quan yêu sống. Về điều này, Kim Lân khẳng định “Khi đói người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống”. Tinh thần nhân bản của tác phẩm tỏa sáng ở đây.
Nhân vật bà cụ Tứ cho ta càng thấy rõ giá trị nhân đạo mà Kim Lân gửi gắm. Chính giá trị nhân đạo ấy khiến Kim Lân và “Vợ nhặt” sống mãi trong lòng bạn đọc mặc cho lớp bụi thời gian có phủ kín. Với trái tim ấm nóng và tấm lòng nhân hậu Kim Lân thể hiện sự đồng cảm, trân trọng và nâng niu với những số kiếp bé nhỏ. Đó là là bà cụ Tứ - người mẹ dịu hiền, yêu thương lo lắng cho con hết mực. Chẳng những thế, ở phía sau con người già yếu sắp gần đất xa trời như bà là niềm tin, tinh thần lạc quan vào cuộc sống. Chính điều đó đã nhen lại sự sống cho đôi vợ chồng trẻ, giúp họ vững tin vượt qua khó khăn. Ngòi bút của Kim Lân còn tố cáo chế độ thực dân Pháp, phát xít Nhật đã khiến đời sống nhân dân ta lâm vào cảnh khốn cùng, cả dân tộc đứng trước thảm diệt vong, người chết như ngả rạ, người sống thì vất vưởng như những bóng ma. Nhưng vượt lên trên tất cả Kim Lân không để cho nhân vật của mình phải chết trong đau đớn, quằn quại như “Chí Phèo” hay “Lão Hạc” của Nam Cao. Kim Lân đã hé mờ cho nhân vật của mình một lối đi, một lối đi hướng về tương lai, hướng về sự sống khi để hình ảnh lá cờ bay phấp phới trong tâm trí Tràng - bắt nguồn từ sự thay đổi nhận thức đã sẵn sàng trong tâm trí người vợ nhặt.
Với cách dựng truyện tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ. Kim Lân khéo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và nhân vật. Không những thế giọng văn còn mộc mạc, giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động. Tất cả làm nên tên tuổi “Vợ nhặt” một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện một xã hội nghèo khổ, cùng cực, nhưng vẫn sáng lên tình người và những tia hi vọng trong tư tưởng của người nông dân.

Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn" như Kim Lân đã thực sự thành công khi miêu tả những diễn biến phức tạp của bà cụ Tứ. Cũng giống như thị, bà cụ Tứ cũng được vẽ bởi những nét nguệch ngoạc nhưng ẩn sâu trong tâm hồn bà vẫn luôn hướng mình về ánh sáng, về sự lạc quan và tin tưởng vào hạnh phúc trong cuộc đời nhất định sẽ tới. Một người mẹ hết lòng vì con, một con người biết cưu mang, che chở, sống nhân ái, tình nghĩa đó là đạo lý tốt đẹp của con người Việt Nam. Nhân vật bà cụ Tứ là một trong những nhân vật điển hình, tiêu biểu cho hình ảnh của người mẹ Việt Nam:
“Cả cuộc đời Mẹ một nắng hai sương
Lặng lẽ bước trên đường dù mưa gió
Bởi thương con…Mẹ lần mò vượt khó
Dù gian truân vàng võ chẳng nao lòng”

 

Để tham khảo thêm nhiều bài viết hay, và chạy nước rút hiệu quả, hãy đăng ký sở hữu các đầu sách và đăng ký khoá học của HVCH nhé!

Link đặt sách: https://bit.ly/2ZPn5bZ

Link đăng kí khóa KIẾN THỨC NỀN TÁC PHẨM LIVESTREAM:  https://bit.ly/khoaKTNtructuyen_HVCH

Link đăng ký khóa LUYỆN ĐỀ CHUYÊN SÂU: https://bit.ly/LUYENDELOP12

Link đăng kí khóa VIP lớp 11: https://bit.ly/KHOAHOC2K5

 

Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH:

Fanpage:  Học văn chị Hiên

Youtube: Học văn chị Hiên - Youtube 

IG: Học văn chị Hiên

Tiktok: Học văn chị Hiên

Tin liên quan