BỨC TRANH PHỐ HUYỆN NGHÈO TRONG "HAI ĐỨA TRẺ"

Ngày 23/08/2021 16:27:09, lượt xem: 4396

Đề bài: Phân tích bức tranh phố huyện nghèo trong tác phẩm “Hai đứa trẻ” của Thạch Lam.

 

 

Bài làm: Phân tích Bức tranh phố huyện nghèo:


Giữa những bộn bề của buổi chợ phiên văn chương, giữa những đông đúc của gian hàng lãng mạn, Thạch Lam được ví như một vị khách đặc biệt. Con người của Tự lực văn đoàn ấy không đưa tôi đến chân trời của phiêu du, mộng tưởng của những ái ân, khát vọng thường thấy trong văn học lãng mạn mà dẫn tôi vào giữa cõi đời rất thực bằng ngòi bút tinh tế, nhạy cảm. Và “Hai đứa trẻ” đã đưa tôi đến một phố huyện nghèo khi ngày sắp tàn, sau đó bóng tối đổ xuống như trút, tràn ngập lên những kiếp người đói khổ, cơ cực, quẩn quanh và bế tắc đã bị lãng quên từ lâu.


Thạch Lam - cây bút chủ lực của Tự lực văn đoàn nhưng người ta lại thấy ông đứng về một phía rất riêng. Cái riêng đó có lẽ bắt nguồn từ quan điểm của ông đối với văn chương mà ta chưa quên: “văn chương không phải là một cách đem đến cho người đọc sự thoát li hay quên, trái lại văn chương là một thứ khí giới thanh cao và đắc lực của chúng ta, để vừa tố cáo và thay đổi một cái thế giới giả dối và tàn ác, vừa làm cho lòng người được thêm trong sạch và phong phú hơn”. Nói như thế có nghĩa là, ở Thạch Lam bên cạnh cái “tài” còn có cái “tâm”. Cái “tâm” trong sáng, chứa đầy rung cảm, yêu thương với đời. “Hai đứa trẻ” được khơi từ tấm chân tình ấy, nhưng lại được bứng trồng và nuôi lớn trên mảnh đất cuộc đời đầy bất công tàn bạo của chế độ thực dân nửa phong kiến.


Theo dòng diễn biến tâm trạng của Liên - một cô bé chưa đủ cứng cáp để làm người lớn nhưng cũng không còn sự vô tư của trẻ con nên rất tự nhiên, Thạch Lam đưa người đọc bước vào cuộc sống của phố huyện nghèo lúc chiều buông và đêm xuống và rồi người đọc tự thấm thía cảm nhận cuộc sống nơi đây đang dần tàn lụi và chìm vào tăm tối.


Ở mảnh đất này, mọi thứ đều đang ở trong trạng thái mất dần sinh khí. Không có tiếng ca vang gọi bình minh mà chỉ có tiếng than thở nặng trĩu “Chiều, chiều rồi”. Một câu văn ngắn nhưng gợi lên bao nỗi niềm, đó là lời than ngậm ngùi của Liên khi chứng kiến cảnh chiều quê đượm buồn thấm đượm, phủ kín tâm hồn cô bé. Nghe kĩ, ta lại thấy cả tiếng thương thầm của Thạch Lam dành cho bao kiếp đời tàn theo thời gian. Cứ “ngày tàn”, cứ mỗi khi “Chiều, chiều rồi” là tiếng thu không lại mòn mỏi vang ra như để gọi buổi chiều. Tiếng trống như những giọt âm thanh điểm nhịp cho từng giọt thời gian rơi tàn. Mặt trời gay gắt trong cơn hấp hối ở “phương tây” cố gắng hắt lên ánh “đỏ rực như lửa cháy” làm cho “những đám mây ánh hồng như hòn than sắp tàn”. Phía dưới dãy tre làng đã mất đi màu xanh của sự sống, khoác lên mình tấm áo choàng đen, “đen lại và cắt rõ rệt trên nền trời”. Bóng tối dường như bắt đầu trút xuống, “mấy quả thuốc sơn đen”, mắt người “bóng tối ngập đầy dần” … “đen” và “tối” đang hòa vào nhau khiến mặt người không còn nhìn rõ nữa. Chỉ nghe bên tên “tiếng ếch nhái kêu ran ngoài đồng ruộng” theo gió nhẹ đưa vào, tiếng muỗi vo ve trong cửa hàng … âm thanh không khiến phố huyện huyên náo mà chỉ thấy sự tĩnh lặng của một miền hoang vu. Ngày trôi đi trong cái nắng gay gắt của mùa hè với những hoạt động mua bán thường nhật nơi phố huyện. Nhưng cứ chiều buông xuống là phố huyện lại xao xác, phô bày sự điêu tàn, mệt mỏi. Cái nghèo hiện hình trên nền chợ tàn, khi người đã về hết và tiếng ồn ào cũng mất. Trên đất chỉ còn lại rác rưởi, vỏ bưởi, vỏ thị, lá nhãn và lá mía. Rồi xộc lên mùi âm ẩm được hòa từ hơi nóng ban ngày lẫn mùi cát bụi. Đó là mùi vị của nghèo khó, cái mùi rất riêng của đất, của quê hương. Giữa không gian của ngày tàn, chợ tàn là một vài người còn ế hàng đang thu dọn hàng hoá và mấy đứa trẻ nghèo ở ven chợ đang “lom khom” lượm lặt, tìm tòi thứ gì. Chúng nhặt bất kể thứ gì có thể dùng được do người bán hàng bỏ lại. Dường như cái chợ “còm” ấy là kế sinh nhai của cả người lớn và trẻ con nơi này, nhưng hỡi ơi, chợ tàn, hàng ế, chỉ còn có rác rưởi và một mùi riêng của đất nghèo. Chứng kiến cảnh ngày tàn, Liên “động lòng thương” nhưng thương thì cũng chẳng để làm gì. Vì Liên cũng “không có tiền để mà cho”... Ngày tàn kéo theo sự tàn lụi của cuộc sống.

 

ĐỌC THÊM BỨC TRANH PHỐ HUYỆN TRONG TRUYỆN NGẮN “HAI ĐỨA TRẺ” - THẠCH LAM


Bức tranh phố huyện với sự xuất hiện của những con người. Họ kiếm ăn từ ngày chuyển sang đêm rồi chìm vào bóng tối, nhưng từ trong bóng tối, những con người ấy lại lục tục kéo ra, đúng là:
“Lặn mặt trời lẩn thẩn mò ra
Lôi thôi bồng trẻ dắt già”
(Văn tế thập loại chúng sinh, Nguyễn Du)
Cuộc đời cứ luẩn quẩn như chiếc đèn cù, con người cứ đuổi nhau quanh trục sáng - tối. Những kiếp người tàn lần lượt xuất hiện. Đầu tiên là mẹ con chị Tí “lôi thôi” dắt nhau trong “nhá nhem tối”: “thằng bé cu xách điếu đóm và khiêng hai cái ghế trên lưng ở trong ngõ đi ra; chị Tí, mẹ nó, theo sau, đội cái chõng trên đầu và tay mang không biết bao nhiêu là đồ đạc: tất cả cái cửa hàng của chị”. Ban ngày chị như con cò phải “đi mò cua bắt tép”, tối đến chị như con vạc kiếm ăn, chị “dọn cái hàng nước này dưới gốc cây bàng”. Nhưng bán nước cho ai? Người ghé qua hàng nước của chị có mấy bác phu xe, phu gạo rồi người nhà thầy thừa đi gọi chân tổ tôm. Chẳng kiếm được bao nhiêu nhưng chiều nào chị cũng dọn hàng từ chập tối còn chạng vạng đến đêm đen kịt không rõ mặt người.


m thầm trong bóng đêm của phố huyện là những mảnh đời bé nhỏ, cam chịu một cuộc đời tối tăm. Họ xuất hiện thoáng qua như những chiếc bóng, May nhờ có chấm lửa nhỏ và vàng lơ lửng thoát ẩn, thoắt hiện phía xa khiến bé An nhận ra đó là bác Siêu, “kìa hàng phở của bác Siêu đến kia rồi”. Thạch Lam đặc tả cái “bóng” của bác “mênh mông ngả xuống đất một vùng và kéo dài đến tận hàng rào hai bên ngõ”. Bát phở của bác Siêu là thứ quà xa xỉ đối với chị em Liên và cả những con người nơi góc phố huyện nghèo. Chính vì thế nên gánh phở của bác thành ra “ế”. Rồi lại thêm gánh hát của gia đình bác xẩm cũng đang “ế khách”: họ “ngồi trên manh chiếu, cái thau sắt trắng để trước mặt, nhưng bác chưa hát vì chưa có khách nghe”. Đời sống vật chất và tinh thần nơi phố huyện đều ế ẩm, cạn kiệt.


Cuộc sống vắng hẳn những câu hát, tiếng cười. Chỉ có tiếng đàn bầu nơi bác xẩm bật lên trong yên lặng như để góp thêm sự tĩnh lặng cho phố huyện. Nếu nói không có tiếng cười thì cũng không đúng bởi trong bóng tối ta vẫn nghe tiếng cười “khanh khách” của cụ Thi điên - một người già cả, điên dại và nghiện rượu. Tiếng cười lẫn vào trong bóng tối theo từng bước chân của cụ, nhỏ dần về phía làng. Tiếng cười ấy khiến cho chị em Liên đứng sững nhìn theo, lòng bàng hoàng, run sợ nhưng cũng xót xa khó tả như vừa thấy được sự tàn lụi vì tuổi già, tàn lụi vì nghiện rượu và nghèo khó của một kiếp người tàn. Tiếng cười “khanh khách” đặt vào một kiếp người tàn đã gieo vào lòng người đọc bao thế hệ một nỗi đau day dứt, khôn nguôi.


Phố huyện với bấy nhiêu con người đang dần lụi tắt, nay thêm một gia đình nữa “bỏ Hà Nội về quê ở” vì người cha mất việc. Người mẹ “đầu tắt mặt tối” bên gánh hào xáo, còn hai đứa con trông coi “cửa hàng tạp hóa nhỏ xíu”. Họ nhập vào cuộc sống đơn điệu, buồn tẻ, quẩn quanh, bế tắc ở nơi đây. Đây đâu phải câu chuyện riêng của gia đình hai đứa trẻ mà đây là câu chuyện của cả phố huyện nghèo bên những mảnh đời bé nhỏ, thân phận “con ong cái kiến” âm thầm tội nghiệp sống trong đêm tối.


Hình ảnh đêm tối được Thạch Lam miêu tả nhiều, cứ trở đi trở lại như một ám ảnh, day dứt trong truyện “Hai đứa trẻ”. Phố huyện nhỏ ngập tràn dưới bóng tối và đêm đen: “Tối hết cả, con đường thăm thẳm ra sông, con đường qua chợ về nhà, các ngõ vào làng lại càng sẫm đen hơn nữa”, Bóng tối là hiện thân của sự tù túng, ngột ngạt, bế tắc không lối thoát. Đó là bóng tối của sự nghèo đói, lam lũ. Là hình ảnh của dân tộc ta trước năm 1945:
“Cả dân tộc đói nghèo trong rơm rạ
Văn chiêu hồn từng thấm giọt mưa rơi”
(Chế Lan Viên)

 

ĐỌC THÊM TƯ LIỆU VỀ THẠCH LAM VÀ TÁC PHẨM HAI ĐỨA TRẺ


“Bóng đêm” đã trở thành hướng đi tới, đi về của bao người: mẹ con chị Tí “ở trong ngõ đi ra” khi trời “nhá nhem tối”, “tối đến chị mới dọn cái hàng nước này”,...; cứ chập tối, mẹ Liên lại tạt ra thăm hàng một lần; cụ thi Điên cũng “đi lần vào bóng tối”; nhưng người về muộn, từ từ đi trong đêm”; bác phở Siêu cùng với “một chấm lửa khác nhỏ và vàng lơ lửng đi trong đêm tối”,... Hiếm thấy tác phẩm nào miêu tả bóng tối dày đặc như thế, đêm tối bao bọc xung quanh, vây kín những mảnh đời nhỏ bé. Những con người xuất hiện trong màn đêm tăm tối ấy đều không rõ lai lịch, quê hương bản quán. Ta chỉ thấy họ xuất hiện với công việc thường ngày tù đọng, quẩn quanh. Nhưng cái hay của Thạch Lam không nằm trong bóng tối, cái hay của ông là khắc họa được ánh sáng, những nguồn ánh sáng khác nhau trong màn đêm đen kịt tạo sự đối lập sáng - tối. Những nguồn sáng mà Thạch Lam mang tới lại vô cùng leo lắt. Đó là ngọn đèn hoa kì ở hàng nước nhà chị Tí, chấm lửa nhỏ từ bếp của bác phở Siêu, ngọn đèn vặn nhỏ thưa thớt lọt từng hột sáng qua phên nứa. Nguồn ánh sáng ấy không đủ xua tan màn đêm, không đủ thắp sáng cuộc đời trái lại vừa đủ biến mỗi con người thành một chiếc bóng đổ dài xuống mặt đất trong đêm đen. Cả phố huyện sống âm thầm, mòn mỏi của bóng tối, xơ xác, héo hắt trong nghèo khổ nhưng họ vẫn mơ hồ chờ đợi một cái gì tốt đẹp hơn dẫu sự chờ đợi ấy thật xa xôi và vô vọng: “chừng ấy con người trong bóng tối mong đợi một cái gì tươi sáng hơn cho sự sống nghèo khổ hằng ngày của họ”. Sự chờ đợi ấy được thể hiện qua lời bâng quơ của chị Tí về những người khách hàng chưa ra quán chị, hay cái “nghển cổ” trông ngóng của bác Siêu khi hướng về phía ga đợi đoàn tàu, đặc biệt là tâm trạng khắc khoải của hai chị em Liên hàng đêm chờ đoàn tàu đi từ ga Hà Nội qua ga xép nhỏ phố huyện, đoàn tàu mang đến cho chị em Liên những kí ước tươi đẹp về Hà Nội, một Hà Nội tràn ngập ánh sáng với nhiều thứ nước xanh đỏ… Với một tấm lòng nhân ái, một tâm hồn nhạy cảm, Thạch Lam đã diễn tả tinh tế nỗi thèm khát ánh sáng của những kiếp người bé nhỏ đang bị lãng quên trong ga xép tối tăm, nghèo khổ. Và Thạch Lam đã để cho nhân vật của mình được hi vọng về sự đổi đời dẫu có mong manh, mơ hồ bởi chính họ không muốn cuộc sống của mình chìm trong bóng tối với sự quẩn quanh, bế tắc.


Truyện ngắn “Hai đứa trẻ” giản dị tới mức tưởng như Thạch Lam chẳng cần hư cấu gì, chỉ cần vẽ lại những đường nét bình dị của cuộc sống thực. Cuộc sống ở một phố huyện nghèo hiện lên trên trang sách của Thạch Lam như nó vốn có. Từ những điều đơn điệu, tẻ nhạt, Thạch Lam đã phát hiện ra sự vận động của cuộc sống. Đó là bóng tối tồn tại bên cạnh ánh sáng; cái đẹp ẩn chứa trong cái bình dị; nỗi khát khao ước mơ nằm trong sự nhẫn nhục, cam chịu, tất cả đi liền với nhau. Nhờ sự biện pháp nghệ thuật đối lập đó, phố huyện nghèo đã hiện lên một cách chân thực nhất mà không cần bất kì sự tô vẽ nào cả.


Tôi đọc xong “Hai đứa trẻ” khi trời đã chạng vạng tối, xung quanh hàng xóm đã lên đèn sáng quắc. Tôi chợt giật mình, bóng tối vẫn dâng ngập trong lòng, tôi ám ảnh mãi không thôi trước cảnh đêm tối mênh mông bao trùm phố huyện và day dứt khôn nguôi một nỗi thương cảm những kiếp người mang phận “con ong cái kiến”. Nhưng tôi vẫn sẽ tin những con người bé nhỏ, cam chịu ấy sẽ có một cuộc sống khác, đầy đủ hơn, sung túc hơn nơi phố huyện nghèo. Tôi dám tin vào điều ấy, bởi Thạch Lam đã trao hy vọng cho nhân vật của mình, dù có xa xôi, mỏng manh.

 

Để tham khảo thêm nhiều bài viết hay, và chạy nước rút hiệu quả, hãy đăng ký sở hữu các đầu sách và đăng ký khoá học của HVCH nhé!

Link đặt sách: https://bit.ly/2ZPn5bZ

Link đăng ký Khóa nền: http://bit.ly/KHOAHOC2K4

Link đăng kí khoá VIP: http://bit.ly/KHOAHOCVANVIP2K4

 

Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH:

Fanpage:  Học văn chị Hiên

Youtube: Học văn chị Hiên - Youtube 

IG: Học văn chị Hiên

Tiktok: Học văn chị Hiên

Tin liên quan