Đăng Ký Học
Ngày 31/10/2025 10:21:13, lượt xem: 44
ĐỌC THÊM: SĂN 8+ VĂN - SÁCH ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT
Đề bài: So sánh hai tác phẩm “Chí Phèo” (Nam Cao) và “Vợ nhặt” (Kim Lân).
                                                                                       Bài làm:
           Nhà văn Nguyễn Minh Châu có lần nói đại ý rằng “Người cầm bút có biệt tài là có thể chọn trong cái dòng đời xuôi chảy một khoảnh khắc với một vài sự diễn biến sơ sài nhưng đó có khi lại là cái khoảnh khắc chứa cả một đời người, một đời nhân loại. Đúng như vậy, trong cái dòng đời xuôi chảy ấy các nhà văn sẽ tìm được một khoảnh khắc – một khoảnh khắc – một điểm sáng nghệ thuật có ý nghĩa làm nổi bật tính cách của nhân vật và góp phần quan trọng trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Kết truyện “Chí Phèo” với hình ảnh cái lò gạch cũ, nơi Chí Phèo bị bỏ rơi lúc lọt lòng và “Vợ nhặt” với hình ảnh “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới” chính là điểm sáng ấy. Tuy nhiên mỗi nhà văn lại có những khám phá mới mẻ.
           Nam Cao là một trong số những cây bút hiện thực lớn nhất của nền văn học Việt Nam. Những trang văn Nam Cao luôn ngời sáng các giá trị nhân đạo cao đẹp. Quan điểm nghệ thuật vị nhân sinh của ông đã trở thành ngọn đuốc dẫn đường lý tưởng nhất cho trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945. Độc giả biết tới nhà văn Kim Lân bởi những trang việt chân thực về đời sống làng quê với những thú vui tao nhã của người nông dân quê mình mà ông gọi đó là “thú đồng quê” hay “phong lưu đồng ruộng”. Ông cũng viết chân thực về những người nông dân quê mình chất phác, hóm hỉnh mà rất tài hoa.
           Khi đặt hai tác phẩm “Chí Phèo” và “Vợ nhặt” cạnh nhau, người đọc dễ dàng nhận thấy giữa Nam Cao và Kim Lân có không ít điểm tương đồng, gặp gỡ thú vị. Mác-xim Go-rơ-ki đã từng nói “Văn học là nhân học”. Như vậy, nhiệm vụ của văn học không có gì khác là phục vụ con người, phản ánh đời sống con người. Trước hết, cả hai tác phẩm đều phản ánh hiện thực cuộc sống đầy rẫy những khó khăn của người nông dân. Đó là hình ảnh của một anh Chí “sinh ra nhưng không được quyền làm người”, anh bị cả làng Vũ Đại xua đuổi. Hiện thực cuộc sống hiện lên trong trang viết Kim Lân là cảnh tượng đói thê thảm, giá trị con người rẻ rúng như cỏ rác.
           Nam Cao từng chia sẻ quan niệm văn chương phải nhằm mục đích: “Ca tụng lòng thương tình bác ái công bình”. Dưới ngòi bút của Nam Cao, Chí Phèo bị Bá Kiến và nhà tù thực dân đày đọa, trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng ông vẫn tin trong sâu thẳm tâm hồn của con quỷ ấy vẫn tồn tại bản chất lương thiện của người nông dân lao động mà không thể sức mạnh nào tiêu diệt được. Bản chất lương thiện ấy được đánh thức khi Chí gặp Thị Nở, hương vị tình yêu quyện trong bát cháo hành của Thị Nở đã gọi được linh hồn thuần hậu của Chí Phèo trở về trong suốt những năm tháng u tối. Với Kim Lân, ông xây dựng nhân vật bước ra từ bóng tối hoàn cảnh. Ánh sáng của tình người tỏa ra hào quang đặc biệt của chủ nghĩa nhân văn tha thiết và cảm động. Trong lúc đói khổ thân mình lo còn chưa xong nhưng anh cu Tràng vẫn quyết định cưu mang thị. Đó là tình người, là lòng nhân đạo cao cả. Văn chương dù ở thời kì nào cũng phải nói lên được những ước mơ, khát vọng, những tâm tư, tình cảm của con người trong chiều sâu tâm hồn tác giả. Cả hai tác phẩm “Chí Phèo” và “Vợ nhặt” đều góp phần thể hiện tư tưởng nhân đạo của hai nhà văn. Đồng thời, kết thúc hai áng văn theo hướng mở, giàu sức gợi, đưa tới người đọc nhiều trăn trở, suy nghĩ về tương lai, tạo ra được dư âm sâu bền đối với sự tiếp nhận.
           Tuy nhiên, hai tác phẩm cũng có nhiều điểm khác biệt. Truyện ngắn “Chí Phèo” viết vào năm 1938 đây là thời điểm trước Cách mạng Tháng Tám, khi ánh sáng của lí tưởng cách mạng vẫn chưa soi sáng đường đi cho những nhà văn trên hành trình sáng tạo nghệ thuật. Nam Cao là nhà văn theo khuynh hướng phản ánh hiện thực nên thế giới quan của ông có điểm dừng nhất định, do vậy nhân vật của ông vùng vẫy không lối thoát. Ngược lại, “Vợ nhặt” viết sau Cách mạng tháng Tám, đây là thời điểm Kim Lân tước bỏ toàn bộ quan niệm sáng tác cũ, ông đã là nhà văn của cách mạng, thế giới quan của ông là thế giới quan của thời đại mới, dưới ánh sáng của Đảng. Bởi vậy, ngòi bút của Kim Lân tỏa ra ánh sáng dẫn đường cho nhân vật bước tiếp trên chặng trần thế hướng tới tương lai tốt đẹp hơn.
           Nhà văn Kim Lân xây dựng hình ảnh người nông dân trong bối cảnh nạn đói năm 1945. Cuộc sống tối sầm vì đói khát, người chết đói nằm còng queo bên vệ đường, người đói từ các vùng lũ lượt bồng bế, dắt díu nhau lên xanh xám như những bóng ma, khắp nơi vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người. Nhân vật trung tâm là Tràng, một người dân ngụ cư, cuộc sống chịu thiệt thòi. Vì mưu sinh, anh phải tha hương cầu thực nơi đất khách quê người. Ở đây, để tồn tại, Tràng phải bưng mặt đi làm thuê, làm mướn cho những người có quyền thế, có tiền của. Không những vậy, mẹ con anh còn phải chịu cái nhìn ghẻ lạnh, khinh miệt từ người dân địa phương.
           Nếu Tràng là đại diện cho người nông dân vùng nông thôn trong nạn đói khủng khiếp năm Ất Dậu (1945) thì Chí Phèo lại hiện lên đáng thương hơn rất nhiều. Chí đại diện cho những người nông dân lương thiện bị đẩy vào con đường lưu manh hóa, bị hủy hoại từ nhân hình đến nhân tính, bị gạt ra khỏi xã hội loài người và trở thành “con quỷ dữ của làng Vũ Đại”. Trong sáng tác của Nam Cao, ta không thấy sự hiện diện của cái nghèo, cái đói mà là cái khổ, khổ vô cùng về mặt tinh thần. Chí được cơm no rượu say nhưng có bao giờ được làm người thực sự? Nhà văn thấu hiểu nỗi đau trong sâu thẳm trái tim người nông dân lương thiện, Chí Phèo khát khao được chung sống với cộng đồng nhưng cánh cửa ấy vừa mở ra đã bị đóng sập lại bởi những định kiến của xã hội.
           Truyện “Chí Phèo” kết thúc bằng cách lặp lại hình ảnh cái lò gạch cũ đã xuất hiện ở đầu tác phẩm. Khi nghe tin Chí Phèo chết, Thị Nở nhìn nhanh xuống bụng và trong đầu thoáng hiện ra hình ảnh “cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng bóng người lại qua”. Hình ảnh chiếc lò gạch cũ cuối tác phẩm đã gợi liên tưởng về sự lặp lại của bi kịch Chí Phèo- một vòng luẩn quẩn không lối thoát. Ở phần đầu truyện, Chí Phèo được nhắc tới là một đứa trẻ không cha không mẹ bị vứt bỏ trong một chiếc lò gạch cũ, vắng người qua lại. Để rồi hình ảnh ấy một lần nữa xuất hiện trong tâm trí Thị Nở gợi liên tưởng về thế hệ tiếp nối của Chí, về bi kịch tha hóa không lối thoát. Kết thúc truyện đã thể hiện sự bế tắc, đau khổ của nông dân trong xã hội xưa, qua đó lên án xã hội đen tối đã đẩy con người đến bước đường cùng, không lối thoát. Đó còn là sự trăn trở của nhà văn Nam Cao về số phận con người: Làm thế nào để "giải thoát" cho con người khỏi những đắng cay, đau khổ? Cách kết thúc cũng bộc lộ tinh thần nhân đạo sâu sắc của nhà văn, đó sự đồng cảm, thấu hiểu, xót thương cho số phận bất hạnh, là niềm tin, sự trân trọng vào những giá trị tốt đẹp của con người.
           Không giống với văn học hiện thực phê phán trước cách mạng. Nếu Nam Cao để cho Chí Phèo cảm nhận được tình yêu thương nhưng rồi lại rơi vào bi kịch bế tắc thì ở “Vợ nhặt”, Kim Lân đã hướng những người nông dân đến tương lai. Hình ảnh lá cờ ở cuối tác phẩm mang nhiều ý nghĩa sâu sắc. Kết thúc ấy có cơ sở từ thực tiễn đời sống. Câu chuyện có bối cảnh là nạn đói năm 1945- một thời điểm lịch sử có thật trong đất nước ta vào những năm tháng chuẩn bị cho cuộc cách mạng và đó là những ngày tiền khởi nghĩa với phong trào phá kho thóc Nhật chia cho dân nghèo. Vậy nên trong hoàn cảnh đói khát cùng cực ấy người nông dân nhận ra kẻ thù gây đau khổ cho mình là bọn Pháp và Nhật. Thực dân Pháp thi hành những “luật pháp dã man’, vơ vét của cải còn phát xít Nhật thì bắt nhân dân ta nhổ lúa trồng đay, trồng thầu dầu rồi cùng với thiên tai, lũ lụt…Tất cả đều là căn nguyên dẫn đến thảm cảnh nạn đói năm 1945. Những người dân sống trong hoàn cảnh đó họ sẽ ý thức được mình phải đứng lên đấu tranh tìm con đường cho mình. Họ sẽ tìm đến với cách mạng như một điều tất yếu. Cách kết truyện của Kim Lân đã mang lại giá trị nhân đạo sâu sắc. Nhà văn luôn cảm nhận được ở những người nông dân dù cận kề cái chết nhưng họ luôn nghĩ đến sự sống từ đó mà mở ra cho họ một con đường đi đến tương lai.
           Khép lại trang văn, hình ảnh người nông dân ở hai tác phẩm vẫn để lại những ám ảnh, day dứt trong lòng độc giả. Chí Phèo và gia đình anh cu Tràng mang trong mình những nỗi khổ khác nhau nhưng họ đều đại diện cho số phận của những người dân lương thiện mà khổ cực. Đồng thời, qua hai tác phẩm, người đọc có thể cảm nhận được những giá trị nhân đạo cao cả, nhận thức lớn lao về tình người và niềm khát khao hạnh phúc, cũng như sự nhìn nhận đa chiều để càng trân trọng hơn những phẩm giá tốt đẹp của người nông dân Việt Nam. Như vậy, cả hai nhà văn đã đóng góp cho văn học Việt Nam nói chung, về đề tài người nông dân nói riêng những quan niệm nhân văn đầy ý nghĩa. Đây chính là điểm sáng tuyệt vời nhất còn đọng lại mãi trong tâm trí của những người yêu văn chương.
           Đúng như nhà văn Nam Cao đã từng tâm niệm: “Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên trên tất cả bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn lại phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái, sự công bằng … Nó làm cho người gần người hơn”. Cả hai tác phẩm là niềm cảm thương sâu sắc của người nghệ sĩ trước những số phận khổ đau. Nhà văn dù không nói trực tiếp mà lại hết sức khách quan, khách quan tới mức sắc lạnh nhưng ẩn sâu trong đó là một nỗi đau và niềm xót thương vô hạn về kiếp người.
ĐỌC THÊM: SĂN 8+ VĂN - SÁCH ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT
(7).png)
Đăng ký khóa học và đọc thêm nhiều bài viết hấp dẫn khác của Học Văn Chị Hiên tại đây:
- Fanpage Học Văn Chị Hiên
- Fanpage Học Văn Chị Hiên - THCS Lớp 6,7,8,9
- Khóa học Ngữ Văn chất lượng cao lớp 12
- Khóa học Bứt phá điểm thi cuối học kì 1 - lớp 12
- Khóa học Phương pháp và luyện đề lớp 11
- Khóa học Phương pháp và luyện đề lớp 10
- Khóa học Thực chiến toàn diện lớp 9
- Khóa học Bứt phá điểm thi cuối học kì 1 - lớp 9
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 8
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 7
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 6
Tin liên quan