Đăng Ký Học
Ngày 12/08/2021 09:03:38, lượt xem: 24045
Đề bài:
Nhà văn Tô Hoài khẳng định: “Mỗi trang văn đều soi bóng thời đại mà nó ra đời?.
Còn nhà văn Andre Gide thì cho rằng: “Văn học không làm – hay không phải chi làm công việc của một tấm gương“
Hai ý kiến trên có mâu thuẫn với nhau hay không?
Từ những trải nghiệm văn học, hãy viết bài văn trình bày câu trả lời của em.
(Trích đề thi học sinh giỏi lớp 9 TP. Hồ Chí Mình năm học 2016 – 2017)
BÀI VĂN
Nhà văn Nguyễn Minh Châu đã từng khẳng định rằng: “Văn học và cuộc sống là hai đường tròn đồng tâm mà tâm điểm chính là con người”. Thật vậy, văn học chính là “tấm gương” phản ánh cuộc sống con người và thời đại lịch sử. Văn học xuất hiện với sứ mệnh ghi chép, phản ánh đời thực bằng ngôn từ để từ đó nhắn nhủ. gửi gắm đến bạn đọc về một điều gì đó. Bàn về vai trò của văn hộc, nhà văn Tô Hoài đã khẳng định: “Mỗi trang văn đểu soi bóng thời đại mà nó ra đời”. Còn nhà văn Andre Gide thì nói: “Văn học không làm – hay không phải chỉ làm công việc của một tấm gương”. Vậy, hai nhận định trên liệu có đồng nhất hay chăng?
Trước hết ta cần hiểu rõ thông điệp toát lên từ lời nhà văn Tô Hoài – cây đại thụ của nền văn học Việt Nam hiện đại. “Thời đại mà nó (tác phẩm) ra đời” có thể hiểu theo hai cách. Cách hiểu đơn giản nhất về “thời đại” chính là bối cảnh xã hội mà tác phẩm ra đời được thể hiện vào trong tác phẩm văn học, là những sự kiện lịch sử, những biến đồi về mặt chính trị xã hội mà người nghệ sĩ đã quan sát và lồng ghép vào trang văn cùng với những hình tượng nghệ thuật độc đáo. Bên cạnh đó, “thời đại” của tác phẩm vãn học còn được hiểu rằng: trong mỗi giai đoạn nhất định, trong sáng tác văn học chia ra làm nhiều khuynh hướng khác nhau có the có những nét chung nào đó về tư duy nghệ thuật và kì thuật biểu hiện. Dù mồi người có một “gương mặt” riêng, song tất cả đều làm nên diện mạo chung của giai đoạn văn học đó (chẳng hạn Văn học hiện thực phê phán 1930 – 1945; Phong trào Thơ mới 1932 – 1945…). Chức năng của văn chương là hướng con người tới ánh sáng cùa chân – thiện – mỹ, mà muốn cảm hóa con người thì phải xuất phát từ chính con người. Suy cho cùng Tô Hoài muốn nói với chúng ta ràng: văn chương chăng những phản ánh hiện thực cuộc sống mà còn ghi dấu ấn về thời điểm lịch sử, xã hội ngay lúc tác phẩm văn học ra đời. Điều này rõ ràng là đúng!
Song, nhà văn Andre Gide lại nói: “Văn học không làm – hay không phải chỉ làm công việc cùa một tấm gương”. Nhận định này thực chất rất dễ hiểu, “Công việc của một tấm gương” có thể được hiểu rằng công việc “soi bóng”, sao chép hoàn toàn hình ảnh thật của con người, con vật, đồ vật… mà không hề có sự biến tấu nào cả. Tác giả nhấn mạnh văn học không phải {“không làm – hay không phái chỉ làm”) tấm gưcmg bê nguyên xi hiện thực cuộc sống con người vào trong tác phấm một cách thô thiển, cứng nhắc. Hiện thực cuộc sống khi đi vào tác phẩm phải được lọc qua lăng kính tâm hồn của người nghệ sĩ. Hiện thực phải hiện lên đầy chất nghệ thuật cùng với những tư tưởng nhân sinh mà nhà văn gửi gắm chứ không phải chỉ là một bản sao. Văn học không sao chép hiện thực cuộc sống. Văn học chỉ bắt nguồn từ đời sống con người rồi từ đó người nghệ sĩ thăng hoa trên câu chữ, hiện thực được lồng ghép vào tác phẩm một cách nghệ thuật và đầy ẩn ý. Mồi nhà văn phải biết chắt lọc những gì tinh túy nhất của cuộc sống, phải chọn cho mình một đôi mắt để ngắm nghía, khám phá, để họa nên những câu chữ mang ý nghĩa thật sự. Để làm được điều đó, người nghệ sĩ phải đứng trên mảnh đất hiện thực, phải cảm và thấu đời, hay nói cách khác, khi đứng trước một vấn đề bức thiết, anh không thể chỉ khoanh tay đứng nhìn, cái anh cần làm là cải tạo xã hội, đưa ra hướng đi, hướng giải quyết cho vấn đề ấy. Andre Gide đã đề cao vai trò cua hiện thực cuộc sống trong tác phẩm văn học, đồng thời cũng nhắc nhở người nghệ sĩ không được sao chụp đời sống con người mà phải biến nó thành những hình tượng nghệ thuật có khả năng tái sinh trong tâm hồn người đọc, gắn liền với những quan niệm quý báu.
Hai nhận định trên tuy bề ngoài có vẻ như đối chọi nhau, nhưng thực chất lại bồ sung cho nhau làm nên đặc trưng của văn học. Tô Hoài đề cập đến mối quan hệ giữa văn học và hiện thực. Andre Gide giúp ta hiểu rõ hon mối quan hệ ấy. ông chỉ ra, sao chép cuộc sống không phải mục đích hướng đến của văn học. Tác phẩm văn học còn dung chứa tâm tình, nỗi niềm, bức thông điệp, sự sáng tạo, … Nói một cách khách quan nhất: văn học phải thể hiện được dấu ấn cúa thời đại mà tác phẩm ra đời, phải bắt nguồn từ hiện thực cuộc sống nhưng không được mô phỏng lại hiện thực trần trụi, thô ráp một cách nhạt nhẽo. Trên hết tác phẩm vẫn phải mang tính nghệ thuật, thể hiện sự công phu, khéo léo và dụng công sáng tạo của người nghệ sĩ.
ĐỌC THÊM NGHỊ LUẬN VĂN HỌC | "CHỮ TÂM KIA MỚI BẰNG BA CHỮ TÀI"
Ra đời trong những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, bài thơ “Đồng chí” của Chính Hừu nhanh chóng tạo được tiếng vang trong giới độc giả, trở thành bài thơ “bỏ túi” của anh bộ đội Cụ Hồ trên đường ra mặt trận và sống mãi cho đến ngày hôm nay. Chính Hữu vốn là một người lính hoạt động trong quân đội suốt hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, bởi thế mà thơ ông mang hơi thở của chiến trường, mang đậm chất lính của những anh bộ đội Cụ Hồ, những chiến sĩ giải phóng quân với phẩm chất tốt đẹp, tiêu biểu cho khí phách, lí tưởng của con người Việt Nam thời chinh chiến. Bài thơ “Đồng chí” đáp ứng được những yêu cầu mà Tô Hoài và Andre Gile đặt ra ở hai quan niệm tưởng chừng như mâu thuẫn trên.
“Đồng chí” là bài thơ “sơ/ bóng thời đại mà nó ra đời”. Bài thơ được Chính Hữu viết vào đầu năm 1948 (cùng thời điểm với những bài thơ bất hủ khác như “Bên kia sông Đuống” của Hoàng cầm. “Tây Tiến” của Quang Dũng), sau khi tác giả đã cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc (thu đông 1947) đánh bại cuộc tiến công quy mô lớn của giặc Pháp lên chiến khu Việt Bắc. Bài thơ viết về một sự kiện lịch sử có thật trong lịch sử dân tộc, đó là cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. “Đồng chí” vừa mang cảm xúc của “cái tôi” cá nhân. Nhưng cá nhân ấy lại hòa vào dòng người trên những nẻo đường ra mặt trận, từ sự dấn thân của Chính Hữu, bài thơ mang đậm hào khí của một lớp người thời đại: vừa mang tính độc đáo của một tâm trạng riêng, vừa mang cảm xúc chung của những con người trong hoàn cảnh mới. Tất cả đã tạo nên một “Đồng chí” riêng biệt, độc đáo, không hòa lẫn cùng những bài thơ cùng thời đại trong nền thơ kháng chiến.
Chính Hữu đã phản ánh chân thật đời lính, qua đôi mắt của một nhà thơ quân đội, người lính trong bài thơ “Đồng chí” hiện lên với những nét hiện đại, mang dáng dấp của anh bộ đội Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp. Trong số ít các nhà thơ trẻ trưởng thành trong kháng chiến, Chính Hữu là gương mặt tiêu biểu với cảm xúc thơ dâng trào, với sự dày dặn, đặc sắc về mặt nghệ thuật. Bài thơ “Đồng chí” không mang đậm tính tuyên truyền như những bài thơ khác, ngược lại nó rất nghệ thuật, rất độc đáo. Chính Hữu không chọn cách ghi lại khói lửa của chiến tranh, những hi sinh mất mát mà khéo léo đề cập đến tình đồng chí của những người lính, từ đó khắc họa chân dung người lính Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp trong lòng mỗi người.
Hình tượng người lính trong bài thơ “Đồng chí” mang vẻ đẹp của sự dũng cảm, anh hùng, bất chấp mọi gian khổ, thử thách, sẵn sàng xả thân vì lí tưởng cứu nước, sáng ngời chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Tuy các anh ra đi từ những miền quê khác nhau, người thì nơi “nước mặn đồng chua”, người thì chốn “đất cày lẽn sỏi đá”. Họ chẳng hề quen biết trước, chẳng phải anh em ruột thịt, chẳng cùng xứ sở quê hương. Tuy nhiên những người lính này đã gặp nhau và tụ nghĩa dưới ngọn cờ cách mạng bởi trái tim yêu nước đỏ rực, bởi sự tự nguyện ra đi vì lời thề thiêng liêng: “Quyết tử cho Tồ quốc quyết sinh”.
“Quê hương anh nước mặn, đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đủ
Anh với tôi đôi người xa lạ
Tự phương trời chăng hẹn quen nhau ”
Ra đi từ những miền quê nghèo khó của đất nước, ở đấy có “gian nhà không”, có “giếng nước gốc đa”. Tất cả thật quen thuộc và bình dị, gần gũi và thiêng liêng. Theo tiếng gọi của non sông, các anh đã giã từ quê hương lên đường đi kháng chiến. Hôm qua là nông dân chân lấm tay bùn, hôm nay đã trớ thành người lính dũng cảm.
Người lính trong bài thơ “Đồng chí” mang vẻ đẹp thật giản dị, chân chất của những anh bộ đội xuất thân từ nông dân. Những nét đẹp ấy được thể hiện qua hồn thơ mộc mạc. dân dã của Chính Hữu:
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giêng nước gốc đa nhớ người ra lính ”
Không mang vẻ đẹp kiêu kì “nhất khứ bắt phục hoàn” (một đi không trở lại), cũng không được thể hiện qua việc xem cái chết nhẹ tựa lông hồng như các tráng sĩ thuở trước. Song người lính trong bài “Đồng chí” lại có tấm lòng đổi với đất nước thật cảm động. Giặc Pháp đến giày xéo quê hương, các anh đi kháng chiến, gửi lại làng quê những gì gắn bó nhất, thân thương nhất: mảnh ruộng, ngôi nhà. Tình yêu nước hiện lên tuy giản dị mà sâu nặng biết bao. Ngay cá nỗi nhớ về quê hương cũng được biểu hiện cụ thể và cảm động. Nghệ thuật hoán dụ “gian nhà không”, “giếng nước gốc đa” và phép nhân hóa “Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính” được Chính Hữu sự dụng để bộc lộ nỗi nhớ quê hương của những người ra đi và sự mong đợi của những người ở lại. Nhưng tình cảm riêng tư bấy giờ chẳng đáng là gì, các anh vẫn dứt khoát ra đi bởi tình yêu nước còn nồng cháy hơn bội phần.
Cuộc sống chiến đấu đầy khó khăn, nguy hiểm. Trước những gian khổ thiếu thốn đó, người lính đã mạnh mẽ vượt qua. Chính Hữu nhắc đến những điều đó bằng những chi tiết thật cụ thể. chân thật:
“Anh với tỏi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vừng trán ướt mồ hôi
Ảo anh rách vai
Ouần tôi có vài mành vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày
Thương nhau tay năm lấy bàn tay ”
Dường như giọng thơ chùng xuống khi Chính Hữu nhắc về những gian khó thời chiến. Đó là căn bệnh sốt rét rừng khó ai có thể tránh khỏi – nỗi lo sợ lớn nhât của người lính, hơn cả bom đạn quân thù. Nhiều thi sĩ đã nhắc đến căn bệnh này trong thơ một cách xúc động, với Tố Hữu là “Giọt giọt mồ hôi rơi – Trên má anh vàng nghệ” (“Cá nước”), với Quang Dũng là “đoàn binh không mọc tóc”, “quân xanh màu lá” (“Tây Tiến”)…còn với Chính Hữu lại là “từng cơn ớn lạnh”, “sốt run người vừng trán ướt mồ hôi”. Những chi tiết này khắc họa hiện thực khốc liệt của chiến tranh mà người lính phải đối mặt khi đi chiến đấu. Bên cạnh đó còn là sự thiếu thốn về vật chất: “áo anh rách vai”, “quần tôi có vài mánh vá”, “chân không giày”. Đời lính hiện lên đầy gian khó! Thế nhưng vẻ đẹp của người lính trong bài thơ được tác giả tập trung ở tình đồng chí, đồng đội keo sơn gắn bó. Đó là một tình cảm lớn khiến họ từ xa lạ hóa thân quen (“đôi tri kỉ”). Sức mạnh tinh thần to lớn giúp họ vượt lên hoàn cảnh, coi thường những gian khổ, hi sinh. Chỉ cần “Thương nhau tay nám lấy bàn tay” trao nhau hơi ấm, sức mạnh là có thê chống chọi được với cơn “sốt run người”, với những ngày lạnh lẽo “buốt giá”, với những đêm phục kích chờ giặc ở “rừng hoang, sương muối”.
Quả thật Chính Hừu đà tái hiện lại hiện thực khốc liệt, gian khó mà người lính phải đối mặt trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Hiện thực ây hiện lên sông động, bình dị, đời thường nhưng cũng vô cùng xúc động, có khả năng in sâu vào lòng người. Chính tình càm. suy nghĩ, tác phong sống giản dị và sự dũng cám của người lính đã giúp họ vượt qua mọi khó khăn. Họ thật sự là những người bình thường nhưng không hề tầm thường. Người lính cách mạng trong bài thơ “Đồng chí” là những người anh hùng của thời đại. sống nghĩa tình, hồn nhiên cầm súng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc. Ỏ một khía cạnh khác, “bủng dáng thời đại” trong bài thơ “Đồng chí” còn được thể hiện ờ những đặc trưng cúa thơ ca Việt Nam thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp mà Chính Hữu nỗ lực thể hiện. Nhà thơ đã sử dụng bút pháp hiện thực để phàn ánh đời sống chiến đấu, không hướng tới những cái phi thường tuyệt mĩ mà tô đậm những cái bình thường, có thật nhưng đầy tính nghệ thuật. Đặc biệt là thơ giàu nhạc tính, ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, cô đọng nhưng vô cùng biểu cảm.
Ra đời năm 1971, giữa lúc cuộc kháng chiến chống Mĩ của dân tộc đang diễn ra ác liệt, truyện ngắn “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê – cây bút nữ chuyên viết về cuộc sống chiến đấu của tuổi trẻ ở tuyến đường Trường Sơn máu lửa – lại thể hiện được những đặc trưng về thời đại mà nó ra đời và hiện thực cuộc kháng chiến chống Mĩ xâm lược. Lê Minh Khuê cũng là một trong những thanh niên xung phong thời chống Mĩ nên bà hiểu được hoàn cảnh sống và chiến đấu của những người thanh niên trên đường Trường Sơn. Qua những trang văn “Những ngôi sao xa xôi”, Lê Minh Khuê đã làm hiện lên bức tranh chân thực, cảm động về cuộc kháng chiến chống Mĩ và hình tượng những thanh niên xung phong tiêu biểu cho vẻ đẹp của tuổi trẻ Việt Nam những ngày đất nước có giặc.
ĐỌC THÊM NGHỊ LUẬN VĂN HỌC | PHÂN TÍCH ĐIỆP NGỮ "BUỒN TRÔNG"
Cũng như bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu, truyện ngán “Những ngôi sao xa xôi” của Lê Minh Khuê cũng “sơ/ bóng thời đại mà nó ra đời”. Cùng phản ánh thời điểm lịch sử của đất nước với truyện “Những ngôi sao xa xôi” là truyện ngắn “Rừng xà nu” của Nguyên Ngọc, “Những đứa con trong gia đình” của Nguyễn Thi, “Mảnh trăng cuối rừng&rdqu
Tin liên quan