NGHỊ LUẬN VĂN HỌC | GIÁ TRỊ NHÂN ĐẠO NHÌN TỪ VẺ ĐẸP NGƯỜI VỢ NHẶT

Ngày 23/05/2021 10:16:46, lượt xem: 3263

Đề bài:

Phân tích vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật người vợ nhặt. Từ đó thấy được giá trị nhân đạo mà Kim Lân muốn thể hiện trong tác phẩm “Vợ nhặt”.

 

 

Bài làm:

Đất nước Việt Nam - đất nước của những câu hát ru ngọt ngào một thuở, đất nước của cánh cò trắng bay, đất nước của bàn tay mẹ tảo tần qua bao năm tháng... và từ trong nguồn mạch dạt dào ấy, người phụ nữ kết tinh của non nước ngàn năm, là đề tài chưa bao giờ vơi cạn trên ngọn bút của người nghệ sĩ, qua nhiều thời đại khác nhau. Nếu chị Dậu của Ngô Tất Tố là điển hình cho người phụ nữ Việt Nam thời kì kháng chiến chống Pháp. Một người phụ nữ mẫu mực, không gục ngã trước thử thách, là chỗ dựa cho cả gia đình ở thế cùng quẫn. Thì thị của Kim Lân dường như chỉ còn lại sự bé nhỏ, nổi trôi, bất hạnh và khổ sở không biết đi đâu về đâu. Nhưng chính trong những con người ấy lại ẩn chứa những “hạt ngọc”, và chính “hạt ngọc” ấy đã góp phần làm nên giá trị nhân đạo của tác phẩm “Vợ nhặt”.

Bạn đọc biết đến Kim Lân qua những trang văn viết về về người lao động, về nông thôn Việt Nam trước Cách mạng với cuộc sống bình dị, nghèo khó, một cuộc sống cùng cực nhưng vẫn chan chứa biết bao tình. “Vợ nhặt” là một trong những tác phẩm như thế. Tiền thân của nó từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” song vì kháng chiến mà bảo thảo đã bị thất lạc và rơi rớt nhiều. Cho nên năm 1954, khi hòa bình lập lại Kim Lân đã viết tác phẩm này dựa trên những hình dung về nạn đói khủng khiếp năm 1945 mà từ Quảng Trị đến Bắc Kì có hai triệu đồng bào chết đói đã được ghi lại từ tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” trước đó. Về sau “Vợ nhặt” được in vào tập “Con chó xấu xí” năm 1962 và trở thành tác phẩm thành công nhất viết về những góc nhìn khác trong nạn đói.

Trong tác phẩm “Vợ nhặt”, bên cạnh xây dựng thành công một hình tượng anh Tràng xấu xí, ngờ nghệch nhưng lại mang một trái tim nhân ái, sẵn sàng giúp đỡ người gặp hoàn cảnh khốn cùng thì tác giả này cũng đã rất thành công khi viết về thị - người đàn bà trong tình cảnh khốn cùng ấy. Thị hiện lên là một người đàn bà vô danh – một số không tròn trĩnh – không tên, không tuổi, không quê quán, không nghề nghiệp, không tài sản. Cái đói đã cướp đi tất cả. Thị chỉ còn biết ngồi vêu ở xó tỉnh để nhặt hạt rơi, hạt vãi. Và Kim Lân đã cho thị và Tràng gặp nhau trong tình cảnh hết sức éo le, trớ trêu. Tràng xuất hiện với câu hò mùi mẫn “Muốn ăn cơm trắng với giò/ Lại đây mà đẩy xe bò với anh”, thị đã ton ton chạy lại giúp anh nhưng nào ngờ đó chỉ là lời bông đùa của Tràng. Đến lần sau, thị gặp lại Tràng trong bộ dạng gây ám ảnh kinh hoàng trong tâm trí người đọc: “tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thân hình tiều tụy, khổ sở “thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi, trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt”. Thị bây giờ qua những chi tiết miêu tả của Kim Lân thực sự là hiện thân cho một con ma đói. Cái đói đã khiến cho nhân vật này không còn sức để nghĩ bất cứ một điều gì khác ngoài miếng ăn. Dưới chân thị là vực thẳm, là chết đói thị tức tối đứng trước Tràng mà sưng sỉa, cong cớn cho rằng Tràng là kẻ thất hứa. Tất cả chỉ vì miếng ăn mà thành ra như vậy. Sau khi được Tràng đãi một chầu bánh đúc, thị lại bám vào lời nói đùa của Tràng để theo không hắn. Vì đói, vì khát, người đàn bà này buộc phải bỏ qua danh dự và nhân phẩm của mình. Từ đây chúng ta biết đến thị với cái tên “vợ nhặt” đầy thương xót.

Nhưng Kim Lân không dừng lại ở nỗi khốn cùng của người dân lao động, điều mà Kim Lân hướng đến không phải là cái đói, cái chết mà dùng nó để làm đòn bẩy khẳng định sự sống trong họ, khẳng định dù trong hoàn cảnh cơ cực, con người vẫn vươn lên để sống và khao khát. Kim Lân viết “Vợ nhặt” không chỉ bằng con mắt hiện thực sắc lạnh mà còn bằng cả trái tim chan chứa yêu thương và trân trọng con người. Qua đó nhà văn phát hiện những tia sáng về đạo đức, danh dự, đằng sau những số phận bi kịch là vẻ đẹp tâm hồn, là những khát khao bản năng của con người. Với tấm lòng rất mực nhân hậu, Kim Lân đã nhìn thấy ngay ở hành động theo không Tràng - một người đàn ông xa lạ về làm vợ, nhìn bề ngoài là sự mất giá đến thảm hại của người phụ nữ. Nhưng sâu thẳm bên trong người đàn bà khốn khổ ấy là một lòng ham sống mãnh liệt. Hành động thị theo không Tràng mà không cần cưới treo, bên ngoài là bản năng sinh tồn, bấu víu vào sự sống. Nhưng sâu hơn, đó cũng là hành động biểu thị khao khát chính đáng, cơ bản của con người.

Kim Lân còn thấy cả sau vẻ ngoài nhếch nhác và tiều tụy là một người biết điều, ý tứ. “Thị cắp cái thúng con, đầu hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có vẻ rón rén và e thẹn.” Khi nhận thấy cái nhìn tò mò của mọi người xung quanh “thị càng ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả vào chân kia”. Linh cảm của một người phụ nữ đã mách bảo cho thị, thị ý thức được thân phận nghèo hèn của mình, thị xấu hổ vì cảnh ngộ theo không của mình. Bởi thị vẫn còn lòng tự trọng. Nhưng bên cạnh đó, phải chăng thị đang mang vẻ ngượng ngùng của cô gái ngày đầu về làm vợ, làm dâu. Cái vẻ ngượng ngùng, e thẹn của người phụ nữ đi bên chồng khi bắt gặp ánh mắt săm soi của người dân xóm ngụ cư. Đã có lúc thị tỏ ra khó chịu vì những ánh nhìn đang đổ dồn về phía mình. Kim Lân không viết, nhưng dường như đang có một cuộc bão lòng xảy ra trong thị. Thị lo lắng cho tương lai của mình, chợt thấy liễu lĩnh cho quyết định của mình. Nhưng hơn ai hết, thị hiểu rằng mình cần được sống, cần phải sống.

Cái dáng vẻ đanh đá, chỏng lỏn, chao chát ngoài chợ tỉnh đi đâu mất khi thị bước chân theo Tràng về đến nhà, thấy cảnh tượng xơ xác của gia đình nhà chồng, thị chỉ nén một tiếng thở dài cam chịu, tuy thất vọng mà không hề kêu than. Đây là một trong những chi tiết thể hiện sự tinh tế trong tính cách của nhân vật. Trước ngôi nhà rúm ró mọc lổm nhổm những búi cỏ dại, thị đã phần nào nghĩ được về tương lai phía trước của mình. Dường như giờ đây trong thị tràn đầy sự khiêm nhường, ý tứ, e dè của một nàng dâu mới: chỉ dám “ngồi mớm ở mép giường” không hết ngượng nghịu, “tay ôm khư khư cái thúng”. Thế ngồi của thị khi mới về nhà chồng là thế ngồi chênh vênh, không vững chắc, thế ngồi nửa vời. Đó cũng chính là tâm thế của thị lúc bấy giờ, một tư thế đầy mặc cảm, cảm giác chông chênh, hụt hẫng, lo lắng,… nỗi buồn tủi đến giây phút này tự nhiên dâng ngập trong lòng người vợ nhặt. Thế nhưng, thị không để nỗi đau trào ra mà nén tất cả nước mắt vào trong, vì tủi nhưng không thể khóc được, vì thất vọng, hụt hẫng mà không thể sẻ chia thế nên tâm trạng của người đàn bà lúc này đang rối bời đến bội phần. Chưa gặp bà cụ Tứ, thị rất băn khoăn lo lắng "mặt bần thần". Thị sợ rằng liệu người mẹ ấy có chấp nhận sự xuất hiện của thị trong ngôi nhà này không. Rồi tương lai của thị sẽ đi đâu về đâu. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông thị rất đáng thương: "cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt". Dường như thị đang mong chờ một quyết định quan trọng, nó như là một bước ngoặt trong cuộc đời thị. Nó quyết định thị sẽ có một mái ấm hay rồi lại “vất vơ” nhặt thóc, nhặt gạo sống qua ngày. Nhưng khi nghe bà cụ Tứ nói: "Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây cho đỡ mỏi chân" thị "vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ". Đó là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu, không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số. Thật đáng thương bao. Nhưng đó cũng chính là sự khép nép, ngượng nghịu của người con dâu lần đầu về gặp mẹ chồng.

Sáng hôm sau thị đã trở thành một người vợ, một người con dâu đúng mực. Thị dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, xây đắp tổ ấm hạnh phúc bé nhỏ của mình. Tiếng chổi quét sân của thị "kêu sàn sạt trên mặt đất" tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng thị? Nghe lời mẹ chồng, thị "lẳng lặng" đi vào bếp dọn bữa ăn sáng. Trong bữa cơm đón nàng dâu mới, cả nhà được bà cụ Tứ đãi món “chè khoán”, theo bà cụ Tứ thì nó “ngon đáo để” mà khối nhà trong xóm không có mà ăn. Thị nén cảm xúc của mình lại dù món “chè khoán” thực chất là món cháo cám rất đắng, chát, khó ăn. Thị nuốt thẳng miếng cháo cám vì sợ mẹ phiền lòng. Qua đây cũng cho thấy thị là một người chịu cam chịu khổ và đặc biệt thị rất yêu thương mẹ chồng mình. Thị bây giờ, đã là một người vợ, một cô con dâu đảm đang, đúng mực, có một gia đình hạnh phúc, yên bình. Gia đình Tràng được tiếp thêm sinh khí khi có thị. Thị hướng tới một tương lai tươi sáng khi người phụ nữ này chính là người nói nhiều nhất về đoàn người đi phá kho thóc của Nhật. Thị đã khai sáng cho Tràng và bà cụ Tứ để rồi hình ảnh đoàn người đi phá kho thóc và lá cờ đỏ sao vàng cứ xuất hiện mãi trong tâm trí của Tràng.

Với những nét vẽ đơn giản, Kim Lân đã xây dựng thành công người vợ nhặt. Một người phụ nữ với hình hài khốn khổ, tội nghiệp thế nhưng trong tâm hồn lại ẩn chứa sự nhạy cảm, tinh tế, sức sống tiềm tàng mãnh liệt và khát vọng hạnh phúc khi đang ở bên bờ vực thẳm. Thị đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no, hạnh phúc. Bên cạnh đó, thị còn là “hóa thân” thành hình ảnh người vợ, người con dâu với những trách nhiệm, công việc đè nặng lên đôi vai. Những người vợ vẫn luôn quán xuyến, lo toan một cách chu toàn cho gia đình bé nhỏ của mình. Những con người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin: "Ai giàu ba họ, ai khó ba đời"...

Qua người vợ nhặt ta càng thấy rõ giá trị nhân đạo tác phẩm. Chính giá trị nhân đạo ấy khiến Kim Lân và “Vợ nhặt” sống mãi trong lòng bạn đọc mặc cho lớp bụi thời gian có phủ kín. Với trái tim ấm nóng và tấm lòng nhân hậu Kim Lân thể hiện sự đồng cảm, trân trọng và nâng niu với những số kiếp bé nhỏ. Đó là thị - một số không tròn trĩnh, một người tưởng như đánh mất cả lòng tự trọng chỉ vì miếng ăn nhưng phía sau là “hạt ngọc” đang được ẩn giấu. Một tấm lòng ham sống, khao khát hạnh phúc đời thường. Cái đói khiến thị trở thành nên chao chát, chỏng lỏn và cong cớn nhưng đó không phải con người của thị. Trong đôi mắt của Kim Lân, thị ý tứ, dịu hiền, đảm đang của một người vợ, một người con dâu mới về nhà chồng. Ngòi bút của Kim Lân còn tố cáo chế độ thực dân Pháp, phát xít Nhật đã khiến đời sống nhân dân ta lâm vào cảnh khốn cùng, cả dân tộc đứng trước thảm diệt vong, người chết như ngả rạ, người sống thì vất vưởng như những bóng ma. Nhưng vượt lên trên tất cả Kim Lân không để cho nhân vật của mình phải chết trong đau đớn, quằn quại như “Chí Phèo” hay “Lão Hạc” của Nam Cao. Kim Lân đã hé mờ cho nhân vật của mình một lối đi, một lối đi hướng về tương lai, hướng về sự sống khi để hình ảnh lá cờ bay phấp phới trong tâm trí Tràng - bắt nguồn từ sự thay đổi nhận thức đã sẵn sàng trong tâm trí người vợ nhặt.

Với cách dựng truyện tự nhiên, đơn giản nhưng chặt chẽ. Kim Lân khéo làm nổi bật sự đối lập giữa hoàn cảnh và nhân vật. Không những thế giọng văn còn mộc mạc, giản dị gần gũi với lời ăn tiếng nói hàng ngày của người dân lao động. Tất cả làm nên tên tuổi “Vợ nhặt” một “kiệt tác” của văn học hiện thực Việt Nam, tái hiện một xã hội nghèo khổ, cùng cực, nhưng vẫn sáng lên tình người và những tia hi vọng trong tư tưởng của người nông dân.

Một nhà văn “nguyện một lòng đi về với đất, với người, với thuần hậu nguyên thủy của cuộc sống nông thôn" như Kim Lân đã thực sự thành công với hình tượng người vợ nhặt. Một người phụ nữ với biết bao vẻ đẹp bị khuất lấp sau bức chân dung được vẽ bằng những đường nét nguệch ngoạc. Sau cùng đó là một tấm lòng hết mực yêu thương, trân trọng vẻ đẹp, khát vọng của con người. Có điều gì quý giá và đáng trân quý hơn thế. Tình người, tình đời thêm một lần nữa thấm đẫm trong những trang sách Kim Lân và đó cũng chính là ánh hào quang để “Vợ nhặt” của Kim Lân tỏa sáng giữa bầu trời văn học Việt.

 

Để làm chủ bài văn, các em có thể đăng ký khóa học 10 NGÀY "CHẠY" VĂN của Học Văn chị Hiên nhé!

ĐĂNG KÍ KHOÁ HỌC TẠI ĐÂY!

 

Cập nhật thêm những bài viết hay tại các kênh truyền thông của HVCH:

Fanpage:  Học văn chị Hiên

Youtube: Học văn chị Hiên - Youtube 

IG: Học văn chị Hiên

Tiktok: Học văn chị Hiên

Tin liên quan