Hướng dẫn viết mở bài cho tác phẩm Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Ngày 26/07/2020 15:23:43, lượt xem: 9657

Hướng dẫn viết mở bài cho tác phẩm Đất Nước - Nguyễn Khoa Điềm

Hướng dẫn giải quyết các vấn đề trong tác phẩm
* Gợi ý mở bài

MB1: Ai đó đã từng nói rằng: “Nếu mỗi người không thuộc về một đất nước, một quê hương thì giống như con chim không có tổ, cái cây không có rề...” Và ai đó cũng đã từng tự hỏi lòng: “Có mối tình nào nặng sâu hơn là mối tình Tổ quốc?” Đi tìm câu trả lời cho câu hỏi ấy đã có biết bao hồn thơ cất cánh. Với Nguyễn Đình Thi là hình ảnh của một Đất Nước đau thương, căm hờn, quật khởi, vùng lên chiến đấu và chiến thắng huy hoàng. Với Lê Anh Xuân là dáng đứng Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân. Với Xuân Diệu là vẻ đẹp của Đất Nước “Tổ quốc tôi như một con tàu, mũi tàu rẽ sóng Cà Mau”. Đặc biệt vào cuối năm 1971, từ chiến trường Bình Trị Thiên khói lửa, Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tiếng thơ hay về đề tài Đất Nước qua trích đoạn: “Đất Nước”-Trường ca “Mặt đường khát vọng”. Từ những bình diện về văn hóa, lịch sử, địa lý tác giả đã lý giải về Đất Nước một cách sáng tạo và mới mẻ để đi tới tư tưởng cốt lõi. “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.”

MB2: Trong giàn hợp xướng của thơ ca Việt Nam thời chống Mỹ, Nguyễn Khoa Điềm vẫn là một tiếng thơ rất riêng, một giọng thơ khác biệt làm nên một phong cách nghệ thuật độc đáo. Bên cạnh một Phạm Tiến Duật trẻ trung sôi nổi phong trần với những lời thơ lấm bụi Trường Sơn đầy chất văn xuôi, một Nguyễn Duy mộc mạc, chân chất mà đằm thắm ngọt ngào với những âm điệu lục bát của ca dao vọng về, là một Nguyễn Khoa Điềm tài hoa mà uyên bác, truyền thống mà hiện đại, thơ ông đĩnh đạc, nghiêm cẩn, trang trọng và cũng rất đỗi tinh tế trữ tình. Trích đoạn “Đất Nước” trong trường ca “Mặt đường khát vọng” đã kết tinh được những nét đặc sắc của phong cách nghệ thuật thơ Nguyễn Khoa Điềm, từnhững bình diện về văn hóa, lịch sử, địa lý,....

1. Khái quát chung
Lật giở từng trang sử dân tộc có thể nhận thấy tư tưởng Đất Nước - nhân dân có nhiều biến chuyển trong mỗi thời kỳ. Thời trung đại, khái niệm Đất Nước gắn liền với quyền lực quân vương:

“Nam quốc sơn hà Nam đế cư
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm
Nhữ đẳng hành khan thủ bại hư”
(“Nam quốc sơn hà”)

gắn liền với các triều đại:

“Như nước Đại Việt ta từ trước,
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,
Núi sông bờ cỏi đã chia,
Phong tục Bắc Nam cũng khác;
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương;
Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,
Song hào kiệt thời nào cũng có.”
(“Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi)

Nhưng một số tướng lĩnh, quan lại như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi đã nhận thấy vai trò to lớn của nhân dân đối với Đất Nước. Trần Hưng Đạo đã từng dâng kế sách cho vua: “muốn đánh thắng giặc phải biết khoan thư sức dân làm kế sâu rễ, bền gốc”. Nguyễn Trãi đã từng khẳng định: “Lật thuyền mới biết dân như nước”, Nguyễn Bỉnh Khiêm cũng từng nói: “Cổ lai quốc dĩ dân vi bảo”. Thời cận đại một số chí sỹ yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh cũng đã nhìn ra sức mạnh và vai trò to lớn của nhân dân. Phan Châu Trinh đã có lần nhấn mạnh: “Dân là nước, nước là dân”, đến thời đại của Hồ Chí Minh, Bác cũng luôn nhắc nhở “Đảng ta phải biết lấy dân làm gốc”.
Dù ở thời đại nào, các nhà tư tưởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò và sức mạnh của nhân dân đối với Đất Nước. Nhân dân gánh trên đôi vai của mình Đất Nước đi suốt cuộc trường chinh cũng như những cuộc khai khẩn đất đai, miền rộng, bờ cõi. Điều này, các nhà thơ nhà văn hiện đại đã có ý thức một cách rõ rệt, sâu sắc, tuy nhiên chỉ đến chương “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng Đất Nước của nhân dân mới được lý giải một cách thấu đáo, toàn diện trên các bình diện lịch sử, địa lý và văn hóa.

2. Phân tích
Trong trích đoạn “Đất Nước”, tư tưởng “Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân” được thể hiện một cách xuyên suốt, sâu chuỗi mọi chi tiết, cảm xúc, hình ảnh thơ. Tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa, văn học dân gian gần gũi và gắn bó với nhân dân. Xuất phát từ phong tục tập quán, ca dao tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích với nhiều sự vật có trong đời sống của nhân dân: “hạt gạo, cái cột, cái kèo, con cúi”, các chất liệu này đã tạo nên một thế giới nghệ thuật bình dị mà sâu xa bay bổng. Đây không chỉ là việc vận dụng sáng tạo truyền thống văn học dân gian mà còn là sự thấm nhuần quan niệm Đất Nước của nhân dân. Thể hiện sâu sắc tư tưởng cốt lõi trong cảm hứng của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã tạo nên một giọng điệu tâm tình ngọt ngào, tha thiết, đó là lời của người thương nói với người thương để bày tỏ suy ngẫm của mình về Đất Nước. Kết cấu của đoạn trích tưởng chừng tự do phá cách, phóng túng như một tùy bút bằng thơ nhưng cốt lõi trong đó là hệ thống lập luận chặt chẽ, rõ ràng. Nhà thơ đã cảm nhận Đất Nước qua ba bình diện đáng chú ý: chiều dài của thời gian lịch sử từ quá khứ xa xưa cho đến hiện tại và tương lai; không gian địa lý bao la, bất tậ; bề dày văn hóa và cốt cách tâm hồn dân tộc: phong tục, tập quán, lối sống. Ba phương diện này thể hiện trong sự gắn bó thống nhất. Nhiều khi một chi tiết đưa ra cũng thể hiện được tất thảy các phương diện ấy nhưng dù ở phương diện nào thì tư tưởng Đất Nước của nhân dân vẫn là cốt lõi, là sợi chỉ đỏ sâu chuỗi mọi cảm xúc và suy nghĩ của tác giả. Chính nhờ đó mà Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ, có chiều sâu, ở chính những chất liệu quen thuộc.

• Bình diện thời gian lịch sử

Trên bình diện thời gian lịch sử, Nguyễn Khoa Điềm không dùng các sử liệu như những nhà thơ trước đó, thi sĩ đã mượn lối kể đậm đà sắc thái dân gian:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa...” mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc
Chương thơ được mở ra bằng sự nhận thức về một điều đã là tất yếu: “Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi”. Có thể hiểu “ta” là chủ thể trữ tình, là người “kể câu chuyện Đất Nước”, là người đại diện nhân xưng cho cả thế hệ trẻ nói lên ý thức tìm hiểu cội nguồn Đất Nước. “Ta” suy tư và nhận thức thật tự nhiên. Câu hỏi “Đất Nước có từ bao giờ” là một ẩn số thôi thúc con người trong hiện tại tìm hiểu. Nguyễn Khoa Điềm đã lí giải bằng nhận thức lắng sâu: “Đất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Câu thơ đưa người đọc lạc bước vào miền cổ tích với những cái “ngày xửa, ngày xưa”. Một khoảng thời gian nghệ thuật mang tính chất phiếm chỉ huyễn hồ, huyền thoại, huyền sử. Tuy nhiên khái niệm “ngày xửa ngày xưa” định vị trong tâm thức người đọc một ý niệm: Đất Nước đã có từ rất lâu, rất xa, rất xưa trong thẳm sâu của cội nguồn dân tộc”. Khởi đầu trong quá trình phát triển, Đất Nước gắn với những sự vật, hình ảnh gần gũi, gắn bó, quen thuộc với mỗi người. Đó là câu chuyện của mẹ, là miếng trầu của bà, là hạt gạo ta ăn mỗi ngày: cái kèo, cái cột, cây tre, gừng cay muối mặn,...
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó...
Đất Nước còn gắn với những mối quan hệ thân thiết ruột già là bà, là cha mẹ, là cộng đồng dân mình. Đất Nước vừa lớn lao, thiêng liêng, trang trọng, gần gũi. Giọng thơ thâm trầm, trang nghiêm đã làm cho suy tư về Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn tha thiết, trữ tình.
Khi nghĩ về mấy nghìn năm lịch sử của Đất Nước, tác giả không điểm lại những triều đại giống như Nguyễn Trãi: “Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập / Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương” hay giống như Chế Lan Viên: “Nước Việt Nam nghìn năm Đinh, Lý, Trần, Lê / Thành nước Việt nhân dân trong mát suốt”, Nguyễn Khoa Điềm cũng không nhắc tới những người anh hùng đã ghi danh vào lịch sử dân tộc… Trong cảm nhận ban đầu của thi sĩ, khởi nguyên của Đất Nước chưa phải là những trang sử hào hùng với những chiến tích thuở hồng hoa vĩ đại, mà là những huyền thoại, những truyền thuyết, những phong tục tập quán riêng biệt đã có từ ngàn đời. Lịch sử lâu đời của đất nước không được cắt nghĩa bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các mốc son lịch sử chói lọi mà được nhìn ở trong chiều sâu văn hóa và văn học dân gian. Đây chính là điểm mới trong cách tìm về cội nguồn đất nước của Nguyễn Khoa Điềm.
Đất Nước được cảm nhận trên phương diện lịch sử từ quá khứ, đến hiện tại và tương lai. Đó là một Đất Nước thiêng liêng, hào hùng trong quá khứ gắn liền với huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết về các vua Hùng dựng nước, giản dị, gần gũi trong hiện tại và triển vọng tươi sáng trong tương lai. Với một cảm nhận như vậy về Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã nhận ra một phần Đất Nước trong mỗi chúng ta:
“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời...”
Lời tự nhủ thấm thía, nhẹ nhàng của nhà thơ và lớn hơn là cả thế hệ trẻ bấy giờ ý thức về bổn phận đối với Đất Nước. Mỗi con người phải biết đoàn kết, yêu thương, hi sinh và tận hiến để gìn giữ, bảo vệ tổ quốc, non sông này. Không mang giọng giáo huấn mà như lời tâm sự từ đáy lòng mình, lời thơ đã rung lên trong mỗi chúng ta tiếng ngân rung của trái tim Việt Nam, làm chảy trôi bầu máu nóng, để rồi ai ai cũng tự giác nhắc nhở bản thân phải có trách nhiệm giữ gìn và bảo vệ Đất Nước. Có thể thấy cách tiếp cận và lối tư duy của nhà thơ rất mới mẻ, không giống với bất kì nhà thơ nào cùng thời nhưng lại đem đến cho ta cảm giác thân thuộc, bình dị. Khái niệm Đất Nước không còn trừu tượng nữa mà giờ đây Nguyễn Khoa Điềm đã giúp chúng ta cảm nhận được dòng máu Việt Nam trong chính con người mình, hơi thở Việt Nam ngay trong chính cuộc sống xung quanh mình.
“Tình yêu Tổ quốc là đỉnh núi bờ sông
Đến lúc tột cùng là dòng huyết chảy"
(Xuân Diệu)
Tìm về với lịch sử dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm đã nhấn mạnh tới những con người bình dị, vô danh:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Những con người vô danh ấy chính là nhân dân – những con người bình thường mà phi thường, giản dị, mộc mạc mà cao cả, kỳ vĩ. Chính nhân dân đã tạo dựng, gìn giữ Đất Nước trải qua bao thời đại. Họ không chỉ đánh giặc ngoại xâm mà còn sáng tạo và truyền lại nhiều giá trị văn minh vật chất và văn minh tinh thần cho các thế hệ sau. Quả thật, lịch sử Đất Nước không thể vắng bóng những con người bình dị ấy. Và nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đem đến cho chúng ta những trang sử dung dị mà xúc động vô cùng về lịch sử Đất Nước mà trong đó củ thể tạo dựng chính là nhân dân.

• Bình diện không gian địa lý

Cùng với thời gian đằng đẵng là không gian mênh mông, lịch sử và địa lí là hai phương diện tất yếu mỗi khi chiêm nghiệm về đất nước. Bởi “Đất nước bốn ngàn năm / Vất vả và gian lao”, cũng là bởi “Việt Nam đất nước ta ơi / Mênh mông biển lúa đâu trời đẹp hơn”. Viết sao cho thỏa, nói sao cho vừa, cho đủ về vẻ đẹp địa lí và giá trị lịch sử lâu bền của tổ quốc Việt Nam ta. Nhưng qua những vần thơ của Nguyễn Khoa Điềm, người đọc lại có một hình dung mới mẻ, thú vị nhưng vẫn đủ đầy về quê hương:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Trong những câu thơ này, Nguyễn Khoa Điềm đã có những suy nghĩ độc đáo và cách chọn từ ngữ tinh xảo. Đất Nước không xa lạ mà là không gian gần gũi, gắn bó với cuộc sống hàng ngày của mỗi người: không gian sinh tồn, không gian văn hóa, không gian sinh hoạt, không gian riêng tư chất chứa những kỷ niệm yêu thương. Ý niệm không gian Đất Nước vừa cụ thể, vừa trừu tượng, vừa hữu hạn, vừa vô hạn.... “Đất Nước” được triết tự thành “Đất” và “Nước”. Đất Nước là đất, là nước, là muôn hình vạn trạng của đời sống nhân dân, và rồi lại hài hòa trong một chỉnh thể thống nhất là tổ quốc, dân tộc. Trong lối viết triết tự độc đáo ấy, Đất Nước trở nên thật thân thiết, gần gũi, tách và nhập để đưa tới một ý niệm: Làm ra Đất Nước là ta, là anh, là em, là muôn triệu người dân Việt Nam, Đất Nước có trong anh, trong em, trong mỗi người chúng ta.
Đất Nước còn là không gian của núi rừng, biển cả, không mang dáng vẻ hùng tráng mà chứa đựng bao nỗi niềm thân thương, tình nghĩa. Đất Nước cũng là không gian sinh tồn hết sức đời thường của cộng đồng người Việt qua bao thế hệ: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ.” Nguyễn Khoa Điềm đã chọn một cự li thật gần để soi tỏ về Đất Nước, khiến cho những giá trị trừu tượng, mơ hồ cũng trở nên dễ hiểu và gần gũi vô cùng.
Đất Nước gắn với truyền thuyết, cổ tích, mỗi địa danh đều tắm đẫm những huyền thoại. mỗi hiện tượng văn học dân gian đều nhằm giải thích hình thể của non sông, chứa đựng trong đó những ý nghĩa hết sức thiêng liêng về sự hóa thân của xương máu nhân dân trong quá trình tạo nên Đất Nước. Mỗi tấc đất, mỗi dòng sông đều có xương máu của bao nhiêu thế hệ, đều chứa đựng những ước mơ của con người:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp các ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Đằng sau tình yêu với Đất Nước, nhà thơ nhận ra không gian địa lý không còn là những hình thể vật chất thuần túy, những sự vật vô tri vô giác mà đó là “một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”. Trong cái nhìn của nhà thơ, hình ảnh núi sông của tổ quốc bỗng trở nên thiêng liêng vô cùng. Đọc những truyền thuyết cổ tích huyền thoại nhằm giải thích hình dáng, tên gọi của danh lam thắng cảnh, ta ngỡ như đó chỉ là một cách mỹ lệ hóa núi sông, huyền thoại hóa một địa danh. Nhưng với cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm – người đọc cảm nhận được những giá trị lịch sử, văn hóa phong phú đa dạng đã gợi lên cái hồn và sức sống của sông núi. Vì thế những núi Vọng Phu đâu còn chỉ là làm đẹp thêm một dáng núi mà là câu chuyện người vợ nhớ chồng hóa thân vào sông núi quê hương để làm nên một Đất Nước thủy chung, tình nghĩa. Đó là những hòn trống mái có được tạo hình từ sự hóa thân của những cặp vợ chồng yêu nhau để làm nên một Đất Nước nồng thắm, nhân tình. Đó còn là sự hiện thân của những người học trò nghèo thành núi bút non nghiên làm nên một Đất Nước nghìn năm văn hiến. Những ao đầm để lại như dấu tích của đứa trẻ lên ba là tiếng nói của lòng yêu nước, tiếng nói đòi đi đánh giặc.... Đó là những địa danh lấy tên của những cá nhân bình dị nhưng là tấm gương sáng đầy nhân văn: Bà Đen, Bà Điểm, ông Đốc, ông Trang? Trên khắp Đất Nước, những con người bình dị đã hóa thân vào sông núi để lại cho đời những cái tên bất tử. Tấm bản đồ Đất Nước được phác họa từ Bắc chí Nam, trở thành tấm bản đồ văn hóa của dân tộc, là nơi kí thác tâm hồn, ước mơ, khát vọng của nhân dân. Đất Nước vừa thiêng liêng, cao cả vừa gần gũi. Trong không gian địa lý Đất Nước, mỗi địa danh đều là một địa chỉ văn hóa được làm ra bởi sự hóa thân của bao cuộc đời, bao tâm hồn con người Việt Nam. Điệp từ “góp” được sử dụng là sự nhấn mạnh, trân trọng của nhà thơ nhằm ghi nhận và ca ngợi những đóng góp của nhân dân trong hình hài đất nước. Nhân dân chính là người nghệ sĩ đã sáng tạo ra mọi giá trị tinh thần để làm đẹp thêm thắng cảnh thiên nhiên. Nhân dân thổi hồn vào cảnh vật vô tri để thiên nhiên lưu giữ câu chuyện về phần đời của họ. Tự hào và hãnh diện, trân trọng và ngợi ca, từng ý thơ bật lên từ tấm lòng của một người con đang chiêm nghiệm về quê hương xứ sở, góp thêm vào mảng thơ đề tài Đất Nước những phát hiện mới mẻ và giàu tính nhân văn: “Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy / Những cuộc đời đã hoá núi sông ta...”

 Bình diện văn hóa, bề dày cốt cách tinh thần

Nếu chỉ dừng lại ở phương diện địa lý, phương diện lịch sử thì chưa thể có một khái niệm hoàn chỉnh về Đất Nước, do đó tư tưởng của Nguyễn Khoa Điềm đã được triển khai trên bình diện thứ ba, bình diện văn hóa, cốt cách tâm hồn dân tộc. Nhà thơ không tìm kiếm văn hóa theo hướng liệt kê những danh nhân: Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Đoàn Thị Điểm, .... mà hướng ngòi bút của mình tìm đến với những giá trị văn hóa dân gian, đó là vẻ đẹp của tâm hồn người Việt:
“Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Thật say đắm, thủy chung trong tình yêu: “yêu em từ thủơ trong nôi”, trọng tình trọng nghĩa trong lối sống: “quý công cầm vàng những ngày lặn lội”, thật kiên trì nhẫn nại cũng ý chí phấn đấu quyết tâm bảo vệ sự bình yên cho Tổ quốc, đấu tranh chống lại cái xấu cái ác: “trồng tre đợi ngày thành gậy / Đi trả thù mà không sợ dài lâu”, bao bài học được nhận dân đúc kết và luôn ngời sáng qua bao thời kì.
Vẻ đẹp văn hóa Việt Nam còn được biểu hiện trong lối sống, trong phong tục, kết tinh trong những sự vật bé nhỏ bình thường như “miếng trầu bà ăn”, “cái kèo, cái cột”, “hạt gạo” đều chứa đựng một phần Đất Nước. Mùi nồng của vôi, vị hăng của trầu, vị cay của thuốc chính là sự kết tinh mọi thăng trầm của lịch sử. Hơn nữa, miếng trầu còn nhắc nhở người ta nhớ đến sự tích “Trầu Cau”, câu chuyện về tình cảm anh em, vợ chồng thắm thiết, từ thủa khai thiên lập địa cho đến tận bây giờ. Vì vậy mà miếng trầu ấy đều đã bốn nghìn năm tuổi. Miếng trầu cũng gợi liên tưởng đến phong tục tập quán của ngườiViệt: tục ăn trầu trở thành một mỹ tục:
“Trầu này trầu tính trầu tình
Trầu loan, trầu phượng, trầu mình, trầu ta”
Và:
“Có trầu mà chẳng có cau
Làm sao cho đỏ môi nhau thì làm”
Vẻ đẹp lối sống còn là sự trân trọng những giá trị đạo đức thiêng liêng, vượt qua những gian khó của cuộc đời, sẻ chia đồng cảm với những khát khao để cập bến hạnh phúc: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Câu thơ phải chăng được gợi cảm hứng từ khúc hát ca dao:
“Tay bưng chén muối đĩa gừng
Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”
Tôi vẫn còn nhớ nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm khi tâm sự về chương thơ “Đất Nước” đã đặc biệt nhắc nhớ về một hình ảnh mà ông rất tâm đắc – hình ảnh dòng sông: “Nước Việt có nhiều sông. Mỗi con sông chảy qua một vùng châu thổ đều kiến tạo cùng với nó một bản sắc văn hóa góp phần làm đa dạng thêm văn hóa chung của đất nước.” Để rồi từ sự chiêm nghiệm đó, tác giả đưa bạn đọc đến với những dòng chảy của tự nhiên hay cũng chính là dòng chảy của văn hóa, phong tục Việt Nam:
“Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi.”
Ý thơ là sự kết đọng vẻ đẹp thơ mộng của non sông, đất nước trong những câu dân ca, đặc biệt là những câu dân ca trên sông nước, tiếng hát của những dòng sông ấy đã được cất lên từ chính tâm hồn giàu chất thơ của dân tộc ta, nó gợi lên những vẻ đẹp phong phú, đa dạng, bất tử cùng thời gian. Chắt lọc những “hạt cườm” tinh túy từ vẻ đẹp tâm hồn con người Việt Nam, từ dọc dài thời gian lịch sử, bề rộng không gian địa lí và cả bề sâu văn hóa phong tục, lối sống dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm đã xâu lại thành “chuỗi cườm” lung linh, óng ánh: đất nước muôn đời. Chương thơ “Đất Nước” đã khơi gợi, nhắc nhớ người đọc một lần nữa suy tư về đất nước, một đề tài không mới nhưng lại được khai thác ở những khía cạnh bình dị mà sâu sắc, bởi đôi mắt khám phá và chiêm nghiệm vô cùng mới mẻ của ông vua thể loại trường ca – nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm.

Tin liên quan