Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ Nhặt

Ngày 16/04/2020 21:58:23, lượt xem: 1639

Giá trị nhân đạo và giá trị hiện thực của tác phẩm Vợ Nhặt

 

Giá trị nhân đạo
-Tính nhân bản của truyện: Bản thân bức tranh hiện thực trên đã có giá trị nhân đạo. Con người luôn khao khát sống, khao khát tình thương yêu, hạnh phúc và trong bất kì tình huống nào cũng tin vào cuộc sống, hi vọng vào tương lai. Tính nhân bản này được thể hiện qua diễn biến tâm lí và tình cảm của các nhân vật trong truyện
.-Tình cảm thương yêu, tấm lòng cưu mang đùm bọc và niềm tin ở tương lai của những người khốn khổ, tiếng nói đồng cảm, trân trọng của nhà văn:+Người con dâu: từ chỗ bất chấp sĩ diện, ăn nói chỏng lỏn..., dần dần trở thành con người đúng mực với chồng và mẹ chồng.
+Tràng “nhặt” được vợ từ chỗ liều, dần dần anh có những suy nghĩ nghiêm túc đầy trách nhiệm. Đây là sự biến đổi tâm lí một anh chàng thô vụng, chuyên làm trò cười cho trẻ con đến chỗ trở thành một con người thực sự nên người.
+Đặc biệt là diễn biến tâmtrạng của một người mẹ nghèo rất bao dung và giàu đức hi sinh: “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá” và biểu hiện sự “mừng lòng”, nói toàn chuyện vui trong “bữa cơm” ngày đói. Ngay cả niềm tin mang tính chất kinh nghiệm chủ nghĩa của bà cũng khiến người đọc phải cảm động. Đó là niềm tin vào triết lí dân gian “ai giàu ba họ, ai khó ba đời”, “sông có khúc người có lúc”.
+Tràng thì nghĩ đến xe thóc của Liên đoàn, trong óc... vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới. Tác giả đã khắc họa trạng tháitâm lí cá nhân bị dồn ép vào sự thay đổi số phận của dân tộc
.-Vẻ đẹp của từng nhân vật được toát lên qua những trang viết của Kim Lân. Vượt qua tất cả những khó khăn, những tủi hờn, khổ cực, những người lao động trong xã hội cũ vẫn nương tựa vào nhau để mà sống, mà hy vọng. “Vợ nhặt” cũng là tiếng nói đồng cảm, trân trọng của nhà văn Kim Lân với những người nông dân trước cách mạng

Giá trị hiện thực
-Nạn đói khủng khiếp năm 1945 được tái hiện cụ thể.
+Cảnh đói: Cái đói đã làm cho xóm ngụ cư vốn nghèo khổ giờ đây càng xơ xác, thê lương. Cái đói đã làm cho bọn trẻ con cứ ngồi ủ rũ dưới những xó tường không buồn nhúc nhích. Cái đói càng lan rộng hoành hành, khiến nhiều người xanh xám như những bóng ma, và nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Cảnh tang tóc bao trùm lên xóm ngụ cư: người chết như ngả rạ, không khí vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.
+Con người trong cảnh đói: Giữa bối cảnh đó, một cô gái rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, mặt lưỡi cày, chỉ qua mấy câu đùa cợt, đã sẵn sàng sà xuống ăn một chập bốn đĩa bánh đúc, rồi sẵn sàng theo một người đàn ông xa lạ, hòng thoát khỏi cảnh chết đói. Anh chàng ngụ cư nghèo khổ thì “nhặt” được vợ -đặc biệt là bữa cơm ngày đói -đã phản ánh số phận thê thảm của con người.
-Sự đau khổ, căm hờn và phản kháng của nhân dân.
+Hình ảnh thê lương của nạn đói 1945 đã tố cáo tội ác tày trời của bọn phát xít Nhật. Chúng đã đẩy nhân dân ta vào vòng cùng khổ, chết chóc.
+Tâm trạng của quần chúng trước cơn bão tốcủa lịch sử được bộc lộ. Bà cụ Tứ đã than thở với con dâu: “Đằng thì nó bắt giồng đay, đằng thì nó bắt đóng thuế”.

+Trong đoạn cuối truyện, khi người con dâu nghe tiếng trống thúc thuế thì bảo: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không chịu đóng thuế nữa đâu. Người ta còn phá cả kho thóc của Nhật, chia cho người đói nữa đấy”

Tin liên quan