Chứng minh nhận định qua bài thơ "Đồng chí" - Thơ là sự thể hiện con người và thời đại

Ngày 15/09/2022 09:19:21, lượt xem: 36808

Đề bài: "Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”(Sóng Hồng). Hãy làm rõ điều đó qua hình tượng người lính thời chiến và thời bình trong 2 tác phẩm”Đồng Chí”(Chính Hữu) và”Ánh Trăng”(Nguyễn Duy).

 

 

Lật trái trang thơ may ra anh đọc được trên kia đời tôi một ít
Thơ không phản ảnh đời mình thì nó cũng phản ảnh những mùa hoa.
(Chế Lan Viên)
Phải chăng thơ ca là vậy, nó vẫn luôn phản ánh những mùa hoa đẹp như thế. Hơn hai nghìn năm trước, Trang Tử đã có một triết lí rất hay như thế này: “Biển cả là nơi mà tất cả các nguồn nước trên thế gian này đều ra đi từ đó, nhưng nó không vơi, và nó cũng là nơi đón nhận tất cả các nguồn nước nhưng nó không đầy”.Thơ ca cũng như những nguồn nước đều đi ra từ biển cả cuộc đời. Và hàng ngày, tiếng sóng thuỷ triều vẫn âm vang chuyên chở sóng biển đời thường đến với những trang thơ. Những sự chuyên chở ấy có bao giờ ngừng nghỉ? Mảnh đất hiện thực có bao giờ vơi khi người nghệ sĩ đến đó chở nắng gió cuộc đời tưới mát cho cây. Thơ ca phải gắn cho mình vào nguồn mạch cuộc sống, là tấm gương phản chiếu con người và cuộc sống. Bởi thế mà Sóng Hồng đã từng nói: “Thơ là sự thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp”. Quan niệm ấy của Sóng Hồng đã được nhà thơ Chính Hữu và Nguyễn Duy thể hiện rất rõ trong tác phẩm “Đồng chí” và “Ánh trăng” của mình.

Thơ là thể loại trữ tình phù hợp với mọi cung bậc cảm xúc thi nhân. Bao buồn vui trong đời cảm rung thi sĩ, bao nỗi niềm chất chứa trong tầm can đến lúc mãnh liệt mà “cất lên trang”. Thơ ca là điệu hồn tâm hồn, là những xúc cảm thiêng liêng, mãnh liệt nhất của những người cầm bút.

Thơ ca là sáng tạo đặc biệt của con người.Thơ thể hiện con người và thời đại một cách cao đẹp nó là những sợi tơ rút ra từ cuộc sống và quay trở lại trang điểm cho cuộc sống bằng vẻ đẹp muôn màu của nó. Thơ ca đã có mặt cùng với sự phát triển của nhân loại suốt bao thời kì lịch sử và người ta cũng bắt đầu chú ý đến những vai trò, tác dụng kì diệu của nó đối với cuộc sống, đối với tâm hồn con người. Ý kiến của nhà thơ Sóng Hồng đã bàn về mối quan hệ giữa thơ với con người và cuộc sống thời đại đã sản sinh ra nó. Nhưng hiện thực cuộc sống đi vào thơ không phải là hiện thực trần trụi mà nó được thể hiện một cách cao đẹp, nghĩa là ngợi ca, tự hào, yêu mến,...bằng những hình thức nghệ thuật độc đáo. Hai yếu tố con người và thời đại không tách rời nhau mà gắn bó mật thiết trong cảm xúc và hình tượng thơ.

Với Chính Hữu đó là những người nông dân mặc áo lính ra trận tham gia đánh Pháp bảo vệ nền độc lập vừa mới giành được, họ mang vẻ đẹp cao cả của lí tưởng yêu nước, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh cho Tổ quốc:

“Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới”

Và giữa cái khắc nghiệt của chiến tranh, sự lạc quan tin tưởng vào ngày mai chiến thắng đã giúp các anh đứng vững kiên cường trong những năm tháng đánh giặc. Một nụ cười đậm chất lính được Chính Hữu vẽ lại trong thơ:

“ Miệng cười buốt giá chân không giày”

Điều gì khiến cho những chàng trai quanh năm chỉ quen tay cày tay cuốc ấy đã hăng lên đường cầm súng chiến đấu? Điều gì khiến những chiếc xe không kính ngày đêm lao đi trong mưa bom bão đạn? Điều gì khiến những cô gái vốn yếu mềm có thể hiên ngang chạm vào cái chết vô hình từ những quả bom? Đó chính là lòng chung thủy với quê hương, với mảnh ruộng nhà mình, với vợ con của mình:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay”

Nhà phê bình Nguyễn Đức Quyền đã nhận xét: Ở ngoài mặt trận mà biết gió lay từng gốc cột ngôi nhà mình ở thì thật không còn từ ngữ nào để diễn tả hết tình cảm thiết tha của họ đối với gia đình mình. Thế đó, ai mà không mong muốn được sống yên vui, hạnh phúc trong mái ấm gia đình ? Nhưng vì nghĩa lớn, họ ra đi không tiếc đời mình, bỏ lại sau lưng tất cả những gì thân yêu nhất. Cũng như vậy, ở ngoài mặt trận mà biết Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính chứng tỏ họ đang nhớ quê hương, nhớ người mình thương biết nhường nào! Mối giao cảm đậm đà sâu sắc ấy đã tiếp thêm sức mạnh cho người lính trên những chặng đường chiến đấu.

Hình ảnh “ Sốt run người, vầng trán ướt mồ hôi” là những biểu hiện cụ thể về căn bệnh sốt rét rừng nguy hiểm khi mà trong chiến tranh không có đủ thuốc men để chạy chữa. Và hiện thực khó khăn ấy không chỉ xuất hiện trong thơ Chính Hữu mà trong rất nhiều tác phẩm thơ thời chiến cũng đều có sự góp mặt của căn bệnh này:

“ Tây Tiến đoàn binh không mọc tóc
Quân xanh màu lá dữ oai hùm”

Hay trong bài “dấu chân qua trảng cỏ”, Thanh Thảo từng viết:

“ Những người sốt rét đương cơn
Dấu chân bầm xuống đường trơn ướt nhòe”

Không dừng lại ở đó, người lính còn phải đối diện với cả sự thiếu thốn, khó khăn về vật chất: “Áo rách vai, quần vài mảnh vá” và “chân không giày”. Nhưng trong hoàn cảnh ấy, những người lính vệ quốc, họ đã chia sẻ, giúp đỡ lẫn nhau bằng những hành động chân thành: “ Thương nhau tay nắm lấy bàn tay”. Họ đã truyền cho nhau hơi ấm của tình thương, cùng dắt tay nhau tiến lên phía trước, vì mục tiêu lí tưởng cách mạng lớn lao, vì hòa bình dân tộc. Và có lẽ tình yêu thương nhau đã lấp đầy khoảng trống, làm dịu vơi đi nỗi nhớ nhà, nhớ quê hương. Điều ấy đã làm cho tình đồng chí thêm keo sơn, gắn bó và hóa thành sức mạnh đoàn kết trong suốt cuộc kháng chiến trường kì.
Nét nổi bật trong bài thơ chính là hình ảnh “Đầu súng trăng treo”. Đây là một sáng tạo đặc sắc, giàu chất hiện thực và giàu cảm hứng lãng mạn. Hình ảnh “súng-trăng” được đặt cạnh nhau khiến người đọc có nhiều liên tưởng: giữa thực tại và mơ mộng, giữa chiến tranh và hòa bình, giữa chiến sĩ và người thi sĩ. Sự đan cài giữa hiện thực và lãng mạn ấy vừa cho thấy được hiện thực chiến tranh vất vả lại vừa toát lên vẻ đẹp tâm hồn của người lính:

“Những bông hoa nở trong ngày khói lửa
Vẫn ngát hương và chan chứa niềm tin
Không ngại chi súng đạn với bom mìn
Mang hi vọng trong ánh nhìn sáng rực”

 

ĐỌC THÊM TỔNG HỢP KIẾN THỨC CƠ BẢN CÁC TÁC PHẨM LỚP 9 HỌC KÌ 1 (PHẦN 2)


Với “Ánh trăng”, bài thơ phản ánh tâm trạng của người chiến sĩ - một lớp người rất đông trong xã hội vừa trải qua giai đoạn chiến tranh ác liệt. Trong niềm vui hân hoan chiến thắng, cuộc sống hiện đại văn minh đôi khi con người đã lãng quên quá khứ của mình, lãng quên quá khứ vất vả đau thương của dân tộc. Dòng cảm xúc đó được thể hiện theo thời gian từ quá khứ đến hiện tại và nâng lên thành suy ngẫm mang tính triết lý.

Kỷ niệm gắn bó với thiên nhiên, đất nước bình dị hiền hậu trong quá khứ hiện về trong hai thời điểm của nhân vật trữ tình:

“Hồi nhỏ sống với đồng
với sông rồi với bể
hồi chiến tranh ở rừng
vầng trăng thành tri kỷ”

Khổ thơ đưa người đọc trở về miền quá khứ của người lính. Hàng loạt hình ảnh được liệt kê: đồng, sông, bể, rừng… những nơi anh từng sống với nó. Những quãng thời gian anh từng trải: Hồi nhỏ, hồi chiến tranh. Lời thơ chỉ gợi chứ không tả, nhưng vẫn có thể hình dung cuộc đời của người lính ấy chắc nhiều biến cố, gian nan. Tuổi thơ của anh từng gắn bó với cánh đồng, với dòng sông quê. Trước và trong thời chiến tranh, những vùng quê nghèo làm gì có đèn điện. Nên trăng là món quà vô giá của thiên nhiên. Những đêm trăng làng quê chan hòa ánh sáng và gió mát. Trẻ con được nô đùa trước ngõ, bà nằm võng hát ngâm nga, hay các bác láng giềng cùng ngồi uống trà, trò chuyện trong sân… Thơ ca dân gian còn ghi lại những đêm trăng hội hè, những đêm trăng tát nước đầu đình… thật là hồn hậu, đáng yêu!

“với sông rồi với bể”

Vẫn biết sông, bể là nơi người ta phải vật lộn với sóng gió để mưu sinh, nhưng cũng là nơi có những đêm trăng mát mẻ thanh bình. Trăng rơi trên sông, hào tan vào sóng biển quả là bức tranh tuyệt mỹ. Hẳn tuổi trẻ của anh đã từng đi nhiều nơi, cũng vất vả bôn ba nhưng những vầng trăng ấy đã làm dịu mát tuổi thơ anh, chiếu sáng bao kỷ niệm.

Lớn lên anh trở thành chiến sĩ. Hồi chiến tranh ở rừng, xa nhà, sống giữa núi rừng, hằng ngày đối diện với gian nan, thiếu thốn và hi sinh, mất mát. Chính ánh trăng đã sưởi ấm tâm hồn anh. Câu thơ gợi nhớ vầng trăng trong thơ Chính Hữu: những đêm rét chung chăn, nhưng cơn sốt giữa rừng già, những câu chuyện tâm tình của hai người lính, những đêm trăng trên đường hành quân … Không có gì lạ khi Nguyễn Duy bộc bạch: vầng trăng là người bạn tri kỷ của anh!

Thời thơ ấu và thời chiến tranh. Dù ở đâu trên quê hương, đồng, sông, rừng bể người lính vẫn gắn bó với ánh trăng với thiên nhiên như người bạn tri kỉ. Sự gắn bó ân tình, thủy chung ấy khiến con người nghĩ rằng cả cuộc đời sẽ không bao giờ quên người bạn tình nghĩa.

Hiện thực trong thơ là hình ảnh chủ quan của thế giới khách quan đã được khúc xạ qua lăng kính thi sĩ. Sự sáng tạo ở đây thể hiện qua góc nhìn mới mẻ, độc đáo và những phát hiện riêng của người cầm bút trong quá trình khám phá hiện thực cuộc sống. Có nhà thơ đã nói: “Thơ chỉ bật ra khi trong tim ta cuộc sống đã tràn đầy”. Chất liệu cuộc sống trên đường thâm nhập vào tác phẩm đã mang theo bao nỗi niềm của người sáng tạo và khi bài thơ trở lại với cuộc đời, nó đã in dấu “tâm hồn cá biệt” của nhà thơ. Thật chí lí khi một nhà thơ nước ngoài nói đại ý : Thế giới nứt làm đôi, vết nứt xuyên qua con tim nhà thơ. Nỗi đau ấy, khi đến với chúng ta đã “nhuốm máu” người nghệ sĩ. Chất cá tính trong thơ làm cho tác phẩm khỏi “kho khan” và “nhạt nhẽo”, làm cho thơ nói được điều ngàn xưa đã nói mà vẫn mới mẻ như thường. Đến với “Đồng chí” vẻ đẹp của tình đoàn kết giai cấp, hình ảnh làng quê ruộng vườn, cái nghèo,....của dân tộc Việt Nam trong suốt những năm tháng chống giặc là những chi tiết cuộc sống vô cùng chân thực khi tác giả viết bài thơ này:

“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá”

Những người lính cách mạng trong bài thơ tham gia cuộc kháng chiến đều xuất thân từ nông thôn, chưa từng quen biết nhau từ trước. Đúng như Hồng Nguyên đã viết: “Lũ chúng tôi bọn người tứ xứ”, họ có người đến từ miền biển, có người đến từ đồi núi. Nhưng tất cả họ đều lớn lên từ những vùng cơ cực, lớn lên trong cảnh nghèo khó, lam lũ, vất vả. Sự tương đồng trong xuất thân ấy đã giúp họ gần nhau, quen nhau và gắn bó với nhau:

“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính.”

Trong bài thơ Đồng Chí người lính xuất hiện trên cái nền của hiện thực khốc liệt những ngày đầu kháng chiến trường kì: “Súng bên súng”, “Rừng hoang sương muối”, “ Đứng cạnh nhau chờ giặc tới”,...đã thể hiện vẻ đẹp lí tưởng anh hùng của thời đại cách mạnh Hồ Chí Minh.

Khác với “Đồng chí”, “Ánh trăng” của Nguyễn Duy thể hiện đạo lí sống nghĩa tình và thủy chung với quá khứ đã bị quên lãng một cách vô tình bởi hoàn cảnh sống hiện tại. Nơi đô thị, con người làm quen với tiện nghi hiện đại, văn minh “ánh điện, cửa gương” nên cứ vô tình quên lãng vầng trăng tri kỉ. Đêm nào trăng cũng sáng trên đầu nhưng bị mờ đi bởi ánh điện rực rỡ. Vô tình trăng và người cứ dửng dưng như người xa lạ, chưa hề quen biết với nhau dù trước đây là tri âm, tri kỉ.

Một tình huống giản dị bình thường trong cuộc sống đã khiến nhân vật trữ tình tỉnh ngộ nhận ra sự thay đổi bội bạc đáng lên án đó của mình - thành phố mất điện:

“Thình lình đèn điện tắt
phòng buyn-đinh tối om
vội bật tung cửa sổ
đột ngột vầng trăng tròn.”

Hai tiếng “thình lình” mở đầu cho khổ thơ thật đúng lúc. Nhờ có sự thình lình bất thường đó ta mới biết rằng hóa ra cái ánh đèn kia không phải là vĩnh cửu, cái ánh sáng của phòng buyn – đinh kia không là muôn đời. Và hóa ra con người ta cũng có lúc “vội bật tung cửa sổ” để tìm ánh sáng cho mình. Câu thơ này thật có ý nghĩa, bởi đây đâu chỉ là cánh cửa sổ bằng sắt hay bằng gỗ của căn phòng mà đây còn là cánh cửa của tâm hồn, của tình cảm, chính cánh cửa này đang được bật tung. Phải đồng thời bật tung hai cánh cửa số ấy thì mới có được chuyện “đột ngột vầng trăng tròn”. Thực ra đột ngột là dành để chỉ tâm trạng con người chứ không phải trăng chờ người bật tung cửa sổ mới bất ngờ đột ngột xuất hiện. Con người có mở cửa hay không mở cửa thì vầng trăng vẫn cứ chiếu sáng, vẫn luôn tràn đầy như thế. Từ “tròn” ở đây không chỉ là một khái niệm hình học, nó còn là sự tròn đầy trọn vẹn của nghĩa tình. Giây phút ngắn ngủi bất ngờ nhưng thực sự có ý nghĩa như một bước ngoặt trong dòng tư tưởng của con người để giúp họ thay đổi.

Việc đối diện với vầng trăng - người bạn tri kỷ đã giúp người lính nhớ về kỷ niệm xưa gắn bó, tươi đẹp và rồi ân hận, xúc động xốn xang. Nỗi ân hận được thể hiện trong dòng nước mắt rưng rưng, nhẹ nhàng xót xa. Chính mình đã đổi thay và bản thân không thể chấp nhận được.

Con người suy ngẫm về mối quan hệ của trăng với mình và giật mình, bừng tỉnh, xót xa Dù thời gian qua đi, dù đất trời thay đổi, trăng vẫn nguyên vẹn, tình nghĩa thủy chung với con người, không hề trách cứ con người đã đổi thay. Trăng vẫn vị tha, nhân hậu tỏa sáng cho con người. Sự cao thượng của vầng trăng khiến con người thức tỉnh lối sống về đạo lý “Uống nước nhớ nguồn” của dân tộc để sống tốt hơn, người hơn.

“Ánh trăng” không chỉ là chuyện của riêng nhà thơ, chuyện của một người mà có ý nghĩa với cả một thế hệ. Hơn thế, bài thơ còn có ý nghĩa với nhiều người, nhiều thời bởi tác phẩm đặt ra vấn đề thái độ đối với quá khứ, với những người đã khuất và đối với chính mình.

Có thể nói rằng sự liên kết giữa thơ và cuộc sống trước hết chính là cảm xúc thơ, là tiếng nói đầu tiên, tiếng nói thứ nhất của tâm hồn khi đụng chạm với cuộc sống trước, là chỉ khi hiện thực cuộc sống tác động vào tâm hồn của con người khiến nó rung lên, dao động mãnh liệt khi đó mới xuất hiện lên những vần thơ dạt dào, cảm xúc. Bản chất của thơ luôn là Ý tại ngôn, cốt lõi thơ là trữ tình. Bởi thế thơ ca bao giờ cũng là một tấm gương của tâm hồn, tiếng nói của tình cảm, của con người, những rung động của trái tim trước cuộc đời. Theo giáo sư Nguyễn Đăng Mạnh “Thơ không cần nhiều từ ngữ, nó cũng không cần quan tâm đến hình xác của đời sống, nó chỉ cần cảm nhận và truyền đi chút linh hồn của cảnh vật thông qua linh hồn của thi sĩ”. Thật vậy Thơ không cần đến những từ ngữ dài dòng, cách miêu tả chi tiết, miên man như văn xuôi, mà chỉ cần vài chữ thôi cũng đủ nói lên được tâm tư, tình cảm của mình, nói lên được cả một sự vật, sự việc mình muốn nói đến. Rồi cái đó người ta gọi là một nghệ thuật, mà chỉ thơ là mới làm nên được. Quả thật văn chương đã tạo ra cho mình một thế đứng riêng còn mạnh hơn lịch sử. Cùng tái hiện lại một thời đau thương nhưng vĩ đại và hình tượng người chiến sĩ nhưng văn chương đã đến với người đọc theo con đường của trái tim, gây nên những xung động thẩm mĩ trong tâm hồn con người, làm thành sự xúc cảm tận đáy tâm hồn và những ấn tượng không thể nào quên. Đó là những năm đau thương chứng kiến những con người cao cả kiên cường, những người lính dũng cảm bất khuất. Họ không khô khan mà bầu nhiệt huyết nung nấu, tràn đầy lòng hy sinh, với tình đồng đội trong sáng, thân ái.

Ý kiến của nhà thơ Sóng Hồng là một ý kiến đúng đắn vì đã lấy con người và thời đại làm cảm hứng sáng tạo trong thơ. Con người chính là linh hồn của thời đại và thời đại tạo ra vẻ đẹp con người. Thơ ca luôn nồng nàn, ấm áp hơi thở cuộc đời và mang dấu ấn sáng tạo nghệ thuật của người cầm bút. Thơ là dòng sông soi bóng cuộc đời, len vào tâm hồn con người những mạch nguồn cảm xúc dạt dào chảy mãi không thôi. Nhà thơ phải “yêu cuộc đời” và trân trọng “nghệ thuật” mới vun đắp những vần thơ nở ra cánh hoa thơm ngát tô điểm cho cuộc đời và con người.

“Đồng chí” và “Ánh trăng” là những bài thơ độc đáo về anh bộ đội cụ Hồ trong và sau chiến tranh, những người nông dân mặc áo lính, anh hùng áo vải trong thời đại Hồ Chí Minh. Ở “Đồng chí” đó là một tượng đài tráng lệ mộc mạc, bình dị mà cao cả thiêng liêng về con người Việt Nam trong cuộc chiến tranh thần thánh, trường kì chống Pháp, qua đó cảm hóa ý thức sâu sắc tuổi trẻ hôm nay về lòng yêu nước và tự hào dân tộc. Còn “Ánh trăng” sẽ đưa ta về một miền kí ức để cảm, để hiểu những triết lí sâu xa, đạo lí uống nước nhớ nguồn của dân tộc.

 

ĐĂNG KÝ NGAY KHÓA HỌC VĂN VIP 2K8 TẠI ĐÂY ĐỂ BỨT PHÁ ĐIỂM VĂN!

Đăng ký khóa học và đọc thêm nhiều bài viết hấp dẫn khác của Học Văn Chị Hiên tại đây:
Facebook Học Văn Chị Hiên THCS
Youtube Học Văn Chị Hiên

Instagram Học Văn Chị Hiên
Tiktok Học Văn Chị Hiên

Tin liên quan