BÀI VIẾT MẪU DẠNG SO SÁNH, ĐÁNH GIÁ 2 TÁC PHẨM TRUYỆN

Ngày 04/11/2025 11:10:04, lượt xem: 27

ĐỌC THÊM: SĂN 8+ VĂN - SÁCH ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT

Đề bài: Viết bài văn nghị luận văn học 600 chữ so sánh hình tượng người phụ nữ trong tác phẩm "Nhà mẹ Lê" (Thạch Lam) và tác phẩm "Dì Hảo" (Nam Cao).

Đoạn trích 1:

“Nhà mẹ Lê là một gia đình một người mẹ với mười một người con. Bác Lê là một người đàn bà nhà quê chắc chắn và thấp bé, da mặt và chân tay răn reo như một quả trám khô. Khi bác mới đến phố, ai ai cũng chú ý đến đám con của bác: mười một đứa, mà đứa nhớn mới có mười bảy tuổi! Đứa bé nhất hãy còn bế trên tay. Mẹ con bác ta ở một căn nhà cuối phố, cái nhà cũng lụp xụp như những căn nhà khác. Chừng ấy người chen chúc trong một khoảng rộng độ bằng hai chiếc chiếu, có mỗi một chiếc giường nan đã gãy nát. Mùa rét thì giải ổ rơm đầy nhà, mẹ con cùng nằm ngủ trên đó, trông như một cái ổ chó, chó mẹ và chó con lúc nhúc. Đối với những người nghèo như bác, một chỗ ở như thế cũng tươm tất lắm rồi. Nhưng còn cách kiếm ăn? Bác Lê chật vật, khó khăn suốt ngày cũng không đủ nuôi chừng ấy đứa con. Từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng. Những ngày có người mướn ấy, tuy bác phải làm vất vả, nhưng chắc chắn buổi tối được mấy bát gạo và mấy đồng xu về nuôi lũ con đói đợi ở nhà. Đó là những ngày sung sướng. Nhưng đến mùa rét, khi các ruộng lúa đã gặt rồi, cánh đồng chỉ còn trơ cuống rạ dưới gió bấc lạnh như lưỡi dao sắc khía vào da, bác Lê lo sợ, vì không ai mướn bác làm việc gì nữa. Thế là cả nhà nhịn đói. Mấy đứa nhỏ nhất, con Tý, con Phún, thằng Hy mà con chị nó bế, chúng nó khóc lả đi mà không có cái ăn. Dưới manh áo rách nát, thịt chúng nó thâm tím lại vì rét, như thịt con trâu chết. Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó."

(Trích “Nhà mẹ Lê”, “Tuyển tập Thạch Lam", NXB Văn học, 2015, trang 28-29)

Đoạn trích 2:

(Lược dẫn: Dì Hảo là con nuôi của bà tôi. Bố đẻ của dì chết đã lâu. Mẹ đẻ dì là bà xã Vận. Dù công việc buôn bán thuận lợi nhưng vì phải nuôi hai đứa con nheo nhóc cùng với đống nợ chồng chất nên bà để dì Hảo đi ở. Mới đầu về nhà mẹ nuôi, dì Hảo khóc ghê lầm nhưng rồi cũng quen dần và trở thành một người con gái rất ngoan đạo. Đến khi lấy chồng, dì dành cho chồng tất cả tình yêu thương nhưng chồng dì lại là một kẻ cở bạc, rượu chè, vũ phu, không yêu dì.)

"Hắn khinh dì là đứa con nuôi, còn hẳn là con dòng cháu giống. Và tuy rằng nghèo xác, hần nhất định không làm gì. Hắn lấy vợ để cho vợ nó nuôi. Dì Hảo cũng nghĩ đúng như thế ấy; dì làm mà nuôi hắn. Người vợ đảm đang ấy kiếm mỗi ngày được hai hào, dì ăn có năm xu. Còn một hào thì hắn dùng mà uống rượu. Và dì Hảo sung sướng lắm. Và gia đình vui vẻ lắm. Nhưng sự tai ác của ông trời bắt dì đẻ một đứa con. Đứa con chết, mà dì thì tê liệt. Mỗi ngày ngồi là một ngày không có hai hào. Người chồng muốn đó là cái lỗi của người vợ vô phúc ấy. Nhưng mới đầu hắn chỉ nghĩ thế thôi. Là vì nhờ ít tiền dành dụm, người ta vẫn có thể đủ cả cơm lẫn rượu. Nhưng rồi rượu phải bớt đi. Đến cả cơm cũng thế. Đến lúc ấy thì hẳn không nhịn được nữa. Hắn chửi bâng quơ. Hắn chửi những nhà giàu, hắn chửi số kiếp hẳn, và sau cùng thì chửi vợ. Ô! Hắn chửi nhiều lắm lắm, một bữa đỏi rượu rồi tình cờ có một bữa rượu say. Dì Hảo chẳng nói năng gì. Dì nghiến chặt răng để cho khỏi khóc nhưng mà dì cử khóc. Chao ôi! Dì Hảo khóc. Dì khóc nức nở, khóc nấc lên, khóc như người ta thố.

Dì thổ ra nước mắt. Nhưng đã vội phí nước mắt làm gì nhiều đến thế. Vì dì còn phải khóc hơn thế nhiều, khi hắn chán chửi, bỏ nhà mà đi, bỏ đi bơ vơ, đau ốm, để tìm cơm rượu. Trách làm gì hẳn, cái con người bắt buộc phải tàn nhẫn ấy? Hẳn phải ăn, phải uống, phải vui thú, đó là đời của hắn. Dì Hảo quê liệt không còn những cái ấy để mà cho. Không, dì có trách chỉ con người tàn nhẫn ấy. Cũng như dì đã không trách bà tôi đã làm ngơ không cấp đỡ cho dì. Bà tôi có còn giàu như trước nữa đâu? Người đã già, đã ốm yếu, và khố cực thay! Đã nghèo như lúc còn hăm hai. Cái cơ nghiệp người gây dựng thầy tôi buôn bán thua lỗ, chúng tôi học hành tốn phí nhiều, đã tan tác đi theo gió bốn phương. Người chỉ có thể đem đến cho dì Hảo mỗi ngày một xu quà, và rất nhiều nước mắt. Và rất nhiều lời than thở."

(Trích "Dì Hảo", "Tuyển tập truyện ngắn Đôi mắt", Nam Cao, NXB Văn học, 2017)

Chú thích:

- Thạch Lam (1910-1942) tên khai sinh là Nguyễn Tường Vĩnh, sau đổi là Nguyễn Tường Lân, là người đôn hậu tinh tế, rất thành công ở thể loại truyện ngắn. Thạch Lam chủ yếu khai thác thế giới nội tâm của nhân vật với những cảm xúc mong manh, mơ hồ. Mỗi truyện ngắn như một bài thơ trữ tình.

- Nam Cao (1915 - 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Trì, là nhà văn lớn của trào lưu văn học hiện thực phê phán 1930 - 1945, là người có vẻ ngoài lạnh lùng nhưng đời sống nội

                                                                                       Bài làm:

            Thần thoại Hy Lạp kể rằng: “Thượng đế đã lấy vẻ đầy đặn của mặt trăng, đường uốn cong của loài dây leo, dáng run rẩy của các loài cỏ hoa, nét mềm mại của loài lau cói, màu rực rỡ của nhị hoa, điệu nhẹ nhàng của chiếc lá, ...chất cứng rắn của ngọc kim cương, vị ngon ngọt của đường mật, khí lạnh lẽo của băng tuyết, đức trung trinh của chim uyên ương đem mọi thứ ấy hỗn hợp lại, nặn thành người phụ nữ.” Nếu trong quan niệm phương Tây, phụ nữ là biểu tượng của cái đẹp, sự mềm mại và đức hạnh, thì trong văn học hiện thực Việt Nam giai đoạn 1930 - 1945, hình tượng người phụ nữ tuy gắn liền với số phận bi thương, cơ cực trong xã hội bất công nhưng vẫn ngời sáng những vẻ đẹp ấy. Hai tác phẩm “Nhà mẹ Lê” của Thạch Lam và “Dì Hảo” của Nam Cao đều khắc họa những người phụ nữ nghèo khổ, chịu nhiều bất hạnh nhưng vẫn mang trong mình đức hi sinh, lòng yêu thương con cái và gia đình.

            Thạch Lam và Nam Cao là hai cây bút tiêu biểu của nền văn học hiện thực Việt Nam. Thạch Lam với lối viết nhẹ nhàng, trữ tình nhưng thấm đẫm hiện thực đã tạo nên những tác phẩm giàu giá trị nhân văn. “Nhà mẹ Lê” là một truyện ngắn khắc họa số phận của một người phụ nữ nghèo khổ, vất vả nuôi mười một đứa con trong cảnh sống bần cùng. Trong khi đó, Nam Cao - nhà văn của những người cùng khố - lại có cách thể hiện hiện thực trần trụi, sắc lạnh hơn. “Dì Hảo” phản ánh bi kịch của một người phụ nữ tần tảo, nhẫn nhịn, nhưng bị chồng ruồng rẫy, đánh đập và chịu cảnh sống cô đơn, tủi nhục. Cả hai tác phẩm đều tập trung làm nổi bật hình tượng người phụ nữ với những nét đẹp về tâm hồn và phẩm chất nhưng phải chịu đựng cuộc sống đầy bất hạnh.

            Trước hết, dì Hảo và mẹ Lê giống nhau ở hoàn cảnh bi đát và số phận đầy bế tắc. Cả hai đều là những người phụ nữ nghèo khổ, sống trong một xã hội bất công, chịu sự vùi dập của những định kiến khắc nghiệt. Họ phải ở trong tình cảnh bần hàn, thiếu thốn, không có quyền tự quyết cuộc đời mình mà phải gồng gánh gia đình. Nếu như mẹ Lê “từ buổi sáng tinh sương, mùa nực cũng như mùa rét, bác ta đã phải trở dậy để đi làm mướn cho những người có ruộng trong làng” để tìm từng cọng rơm nuôi mười một đứa con trong một căn nhà lụp xụp con, thì dì Hảo lại để nai lưng kiếm tiền nuôi chồng - một kẻ lười biếng, rượu chè: "Hắn lấy vợ để cho vợ nó nuôi. Dì Hảo cũng nghĩ đúng như thế ấy; dì làm mà nuôi hắn". Sự nghèo khó của họ không chỉ là cái nghèo vật chất mà còn là sự bế tắc, không lối thoát trong xã hội bất công. Bên cạnh đó, cả hai người phụ nữ đều mang trong mình phẩm chất cao đẹp: sự tần tảo, lòng yêu thương gia đình và đức hi sinh. Mẹ Lê dù vất vả, cơ cực đến đâu vẫn luôn dành hết tình thương cho đàn con thơ, ôm ấp con vào lòng để truyền hơi ấm trong mùa đông giá rét: “Bác Lê ôm ấp lấy con trong ổ rơm, để mong lấy cái ấm của mình ấp ủ cho nó". Dì Hảo cũng vậy, dù bị chồng đối xử tệ bạc, dì vẫn nhẫn nhịn, chấp nhận hi sinh để nuôi sống gia đình: "Trách làm gì hẳn, cái con người bắt buộc phải tàn nhẫn ấy? Hắn phải ăn, phải uống, phải vui thủ, đó là đời của hắn. Dì Hảo què liệt không còn những cái ấy để mà cho. Không, dì có trách chỉ con người tàn nhẫn ấy". Cả hai nhân vật đều thể hiện tỉnh thần nhẫn nhục, chịu đựng, cam chịu số phận đầy bị thương.

            Nam Cao và Thạch Lam đều là những người nghệ sĩ có trái tim nồng ấm tình yêu thương. Chính từ điểm chung đó khiến cho hình tượng người phụ nữ trong hai sáng tác mang những nét tương đồng. Nhà văn trông thấy những vất vả, đau đớn mà người phụ nữ trong xã hội cũ phải gánh chịu để rồi viết ra từng con chữ chạm tới trái tim độc giả.

            Tuy có nhiều điểm tương đồng, nhưng hình tượng mẹ Lê và dì Hảo cũng có những khác biệt rõ rệt về hoàn cảnh sống và cách nhà văn xây dựng nhân vật.

            Về hoàn cảnh, mẹ Lê là người phụ nữ phải gánh vác gia đình đông con, cuộc sống của bà gắn liền với nỗi lo cơm áo gạo tiền từng ngày. Mẹ Lê có thể coi là hình ảnh tiêu biểu cho những người mẹ nghèo, giàu lòng yêu thương, luôn dốc hết sức để bảo vệ con cái dù cuộc sống có khốn khó đến đâu. Trong khi đó, dì Hảo lại có số phận éo le hơn khi bị chồng ruồng rẫy, đánh đập, sống trong sự tủi nhục và cô độc. Nếu như mẹ Lê còn có tình mẫu tử làm động lực sống thì dì Hảo gần như bị dồn vào đường cùng khi đứa con duy nhất của dì mất đi, còn bản thân thì bị liệt. Dì Hảo được khắc họa như biểu tượng của bi kịch không lối thoát. Bà không chỉ đau khổ vì sự bất hạnh cá nhân mà cảng đau khổ hơn khi người ta chê trách bà: "Người chỉ có thể đem đến cho dì Hảo mỗi ngày một xu quả, và rất nhiều nước mắt. Và rất nhiều lời than thở". Mẹ Lê của Thạch Lam, dù cũng lâm vào nghịch cảnh, lại toát lên ánh sáng của niềm tin và hi vọng. Dẫu bị từ chối, thậm chí chịu sự sỉ nhục từ ông Bá – một người giàu có trong làng, bà vẫn nuôi niềm tin rằng ngày mai sẽ tốt đẹp hơn. Điều này phản ánh rõ nét phong cách hiện thực pha lẫn lãng mạn của Thạch Lam, tạo nên sắc thái khác biệt với Nam Cao, người luôn phơi bày sự trần trụi, khốc liệt của đời sống. Hơn nữa, sự khác biệt trong bút pháp của hai nhà văn cũng tạo nên những sắc thái khác nhau trong việc thể hiện hình tượng người phụ nữ. Thạch Lam miêu tả mẹ Lê bằng giọng văn nhẹ nhàng, trữ tình, thiên về khắc họa tình người trong nghịch cảnh. Ông không đi sâu vào sự tuyệt vọng mà vẫn để lại chút ánh sáng của tình mẫu tử thiêng liêng. Ngược lại, Nam Cao thế hiện số phận dĩ Hảo một cách trần trụi, cay đắng, đấy nhân vật vào tận cùng của bi kịch. Dì Hảo không chỉ chịu khổ về thế xác mà còn bị tổn thương tinh thần, sống trong sự cô đơn.

            Sở dĩ hình tượng người phụ nữ trong hai sáng tác có sự khác biệt như vậy là do đặc thu của văn chương. Sáng tạo nghệ thuật luôn yêu cầu những điều mới mẻ, độc đáo vì vậy nếu tác phẩm của anh không để lại được dấu ấn riêng thì nó sẽ “chết yểu” ngay từ khi mới trình làng. Điểm khác biệt giữa hai tác phẩm còn xuất phát từ phong cách sáng tác của Thạch Lam và Nam Cao. Cây bút “vẽ nắng thật đẹp" được biết tới với giọng văn thủ thỉ, tâm tình, trước sau vẫn nhỏ nhẹ, không ồn ào cả khi đề cập tới những vấn đề bức xúc của cuộc sống. Còn nhà văn của những người nông dân - Nam Cao gây ấn tượng bởi giọng văn lạnh lùng nhưng ẩn sau đó là tấm lòng đôn hậu, chan chứa yêu thương. Nam Cao luôn đi sâu khai thác đời sống nội tâm, tinh thần nhân vật, sử dụng phương pháp độc thoại nội dung đầy khéo léo, tinh tế.

            Hai câu chuyện, dù mang sắc thái khác biệt, đều là tiếng nói tố cáo xã hội bất công, đồng thời gửi gắm niềm cảm thông sâu sắc đối với thân phận người phụ nữ. Đọc “Nhà mẹ Lê” và “Dì Hảo”, ta không chỉ cảm nhận nỗi đau đớn mà còn nhận ra sức sống mãnh liệt và lòng nhân hậu của những con người nhỏ bé. Đây chính là giá trị nhân văn vĩnh cửu mà Nam Cao và Thạch Lam đã đóng góp cho nền văn học dân tộc. Hình tượng người phụ nữ trong văn học hiện thực không chỉ dừng lại ở mẹ Lê hay dì Hảo mà còn được khắc họa trong nhiều tác phẩm khác như chị Dậu trong “Tắt đèn" (Ngô Tất Tố) hay bà cụ Tứ trong “Vợ nhặt" (Kim Lân). Những nhân vật này đều thể hiện một mẫu số chung: chịu đựng, hi sinh nhưng cũng đầy tình yêu thương. Đối chiếu với cuộc sống ngày nay, phụ nữ đã có nhiều quyền lợi hơn nhưng vẫn còn đó những trường hợp phải gánh vác gia đình, chịu đựng nhiều thiệt thòi. Vì vậy, việc trân trọng và thấu hiểu những hi sinh của người phụ nữ là điều cần thiết, để hướng tới một xã hội công bằng và nhân văn hơn.

            Kết thúc hai câu chuyện, độc giả không chỉ day dứt vì những bi kịch của nhân vật mà còn suy ngẫm sâu xa về số phận của hàng triệu người nghèo trong xã hội lúc bấy giờ. Hình ảnh dì Hảo và mẹ Lê như những ngọn nến lay lắt trước giông bão, nhưng ánh sáng từ đó vẫn đủ sức soi rọi niềm hi vọng cho ngày mai.

(Bài trích từ sách "Săn 8+ Văn 12" của Học Văn Chị Hiên)

ĐỌC THÊM: SĂN 8+ VĂN - SÁCH ÔN THI TỐT NGHIỆP THPT

Đăng ký khóa học và đọc thêm nhiều bài viết hấp dẫn khác của Học Văn Chị Hiên tại đây:

Fanpage Học Văn Chị Hiên
- Fanpage Học Văn Chị Hiên - THCS Lớp 6,7,8,9
- Tiktok Học Văn Chị Hiên
- Khóa học Ngữ Văn chất lượng cao lớp 12
- Khóa học Bứt phá điểm thi cuối học kì 1 - lớp 12
- Khóa học Phương pháp và luyện đề lớp 11
- Khóa học Phương pháp và luyện đề lớp 10
- Khóa học Thực chiến toàn diện lớp 9
- Khóa học Bứt phá điểm thi cuối học kì 1 - lớp 9
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 8
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 7
- Khóa học Viết Văn tư duy - Ngữ Văn 6

Tin liên quan