HƯỚNG DẪN VIẾT PHẦN NGHỊ LUẬN VĂN HỌC ĐỀ THI TUYỂN SINH LỚP 10 THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (ĐỀ SỐ 2)

Ngày 11/06/2024 10:39:16, lượt xem: 417

Đề thi tuyển sinh vào lớp 10 trường THPT Chuyên KHXH&NV nhận được rất nhiều những ý kiến bàn luận khác nhau. Riêng với học sinh 2k9 cũng gặp nhiều khó khăn với đề bài này. Hãy cùng xem phần hướng dẫn viết phần nghị luận xã hội của đề thi này do Học Văn Chị Hiên biên soạn ở bài viết dưới đây.

 

BÀI LÀM:

“Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha.”
Nỗi mong chờ, ao ước của đồng bào được Bác vào thăm đã không còn nữa! Người đã ra đi mãi mãi để lại bao niềm nuối tiếc trong lòng mỗi người dân Nam Bộ. Viễn Phương- nhà thơ trẻ miền Nam khi ra thăm lăng Bác đã thay mặt nhân dân miền Nam bày tỏ tình cảm của mình khi đứng trước người cha già của dân tộc. Với sự xúc động ,bồi hồi, nghẹn ngào, nhà thơ đã viết bài thơ “Viếng lăng Bác”.
Nhắc đến nhà thơ Viễn Phương là nhắc đến một thi sĩ với hồn thơ nhẹ nhàng, man mác, giản dị. Thơ ông lay động lòng người bởi sự tinh tế trong cách diễn đạt cảm xúc, hình ảnh thơ mộc mạc mà sâu sắc. Bởi “Viễn Phương là một con người rất đa mang, rất nặng lòng với quá khứ, với cách mạng, quá khứ đấu tranh của dân tộc lẫn vào sâu sắc với thơ anh, với hồn anh, với đời anh” (Nhà văn, nhà báo Mai Văn Tạo). Bài thơ “Viếng lăng Bác” được sáng tác năm 1976 khi đất nước thống nhất, lăng Bác được khánh thành và tác giả được vào thăm lăng Bác. Bằng tình cảm chân thành, bình dị của một người con miền Nam cùng cảm xúc nồng ấm, thiết tha, nhà thơ Viễn Phương đã sáng tác bài thơ này như một sự tinh đọng của một quả chín tròn mọng, ngọt ngào, như sự tươi tắn ngát hương của một đóa hoa đẹp hay như màu xanh thắm và độ rắn rỏi, thẳng thắn của loài tre quê hương giàu phẩm chất trước nỗi niềm xúc động và thành kính vô hạn đối với Bác. Đó là tất cả tình cảm chân thành, tha thiết của nhà thơ, mang ý nghĩa của lời tuyên thệ: sẽ làm người hữu ích cho đồng bào và thể hiện lòng trung thành với Tổ quốc quê hương cho xứng đáng với lòng kỳ vọng của Bác - vị lãnh tụ vĩ đại muôn vàn kính yêu của dân tộc.
Những vần thơ bình dị, thiết tha đều đặn, từ tốn vang lên như chất chứa cả một niềm mong mỏi, chân thành của đứa con vòng tay thành kính trước những gì cao cả, thiêng liêng nhất:
“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.
Cách xưng hô của tác giả trong câu thơ đầu tiên này thật đặc biệt. Đó là cách xưng hô “Con” – “Bác” rất gần gũi, thân thương của người dân Nam Bộ. Dường như nó đã xoá tan đi mọi khoảng cách giữa một vị lãnh tụ vĩ đại và một công dân. Bởi vì trong thâm tâm mọi người, Bác là người cha kính yêu:
“Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu đỏ”
(Tố Hữu)
Trong những dòng thơ đầu tiên cất lên của Viễn Phương, cụm từ “ở miền Nam” như thông báo cho Bác biết rằng người con ấy đến từ một nơi rất xa xôi – miền Nam – mảnh đất anh hùng suốt mấy chục năm trời chiến đấu gian khổ chỉ mong có ngày giành được độc lập, thống nhất, mảnh đất mà Bác vẫn luôn đau đáu một nỗi nhớ một niềm mong. Động từ “thăm” cũng như một sự nói giảm nói tránh hay mặt khác còn là sự đấu tranh, đối lập giữa lí trí và thể xác. Dù nhà thơ không muốn tin Bác đã mất rồi nhưng sự thật hiện tại vẫn là thế. Tiếp đến lăng Bác, hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp sau làn sương sớm mai là hàng tre xanh bát ngát, thấp thoáng bóng dáng quen thuộc của làng quê:
“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”
Từ cảm thán “Ôi” biểu thị bao niềm xúc động tự hào về hàng tre trước lăng Bác. Với biện pháp ẩn dụ hàng tre bát ngát xanh tươi trải rộng bên lăng như những hàng quân canh giữ cho giấc ngủ của Bác. “Hàng tre xanh xanh” mộc mạc nhưng “bão táp mưa sa đứng thẳng hàng” đã nhấn mạnh sức sống bền bỉ của tre xanh hay cũng chính là của dân tộc Việt Nam. Hàng tre nơi lăng Bác, hàng tre trong thơ Viễn Phương thân thuộc mà thiêng liêng đến thế!
Từ những hàng tre thẳng hàng canh giấc ngủ cho Bác, ngày ngày nơi lăng Bác, nhà thơ khắc họa những hình ảnh thiên nhiên như ánh mặt trời vẫn sáng soi:
“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”
Theo vòng quay tuần hoàn của tạo hóa, ngày ngày có một mặt trời đi qua trên lăng, chợt ngỡ ngàng cúi mình chiêm ngưỡng những ánh sáng chói lọi, rực rỡ, đỏ một màu chứa chan tình thương của một mặt trời bình yên, thanh thản trong lăng kia tỏa ra. Với nghệ thuật liên tưởng, ẩn dụ đặc sắc, Viễn Phương đã khéo léo ví Bác như một mặt trời rạng rỡ, đỏ rực. Một ngày qua, ông được chiêm ngưỡng hai ánh mặt trời tỏa sáng ngời ngời, rực rỡ cả một không gian nhuộm thắm sắc đỏ, chứa chan dòng chảy thành kính vô tận của hàng vạn con người: Mặt trời vũ trụ – Mặt trời chân lí. Mặt trời của vũ trụ ngày ngày chiếu sáng, sưởi ấm cho thế gian, để hoa nở rộ, để trái chín cành, để người người hớn hở làm việc, để chim trỗi lên những khúc nhạc tươi vui. Thế nhưng luồng ánh sáng rực rỡ vĩnh viễn của vũ trụ cũng im lặng thao thức trước một mặt trời của chân lý cao cả – Bác Hồ. Trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Bác xuất hiện như vầng dương dần nhô lên giữa rặng núi xa xăm, xua tan đi bóng đêm mù mịt tăm tối bao trùm, quét sạch hơi đông lạnh lẽo, đớn đau, bẻ gãy đi mọi cùm gông, xiềng xích. Để rồi, dưới hơi ấm của chân lý bừng chói rực rỡ, những đời nô lệ câm lặng lại ngào ngạt nở hoa để mỗi kiếp người lại hăm hở, sung sướng được trọn vẹn làm người. Trái tim Bác như vẫn luôn rất đỏ một tình yêu mênh mông, vô tận. Và dòng sữa ngọt ngào, ấm áp một tình thương nồng nàn, cháy bỏng từ con tim vĩ đại ấy chảy ra ôm ấp bao phủ cả núi đồi, rừng cây, lại ươm mầm, ấp ủ từng góc lúa, lại vun xới, hồi sinh từng kiếp người. Theo ánh sáng giục giã, thôi thúc đuốc sống chân lí ở phía trước, cả dân tộc dưới sự dìu dắt của Bác đã tiến lên, chống lại kẻ thù hùng mạnh, tàn bạo. Và trong đớn đau, một sức mạnh mãnh liệt, dữ dội đã được Bác thắp lên trong mỗi trái tim quặn thắt của người dân lầm than, cơ cực. Bóng hình Bác lồng lộng được chắp cánh bát ngát bay lên, vĩ đại đã che chở, dẫn dắt cho cả dân tộc vượt qua tăm tối đêm trường để đến với một nền tự do huy hoàng, rạng rỡ:
“Bác ơi, tim Bác mênh mông thế
Ôm cả non sông, mọi kiếp người!”
(Tố Hữu)
Để rồi giờ đây, tại chốn Người yên nghỉ, ngày ngày là dòng người đi trong thương nhớ:
“Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”
Đây là một hình ảnh tả thực diễn tả dòng người đi trong nỗi xúc động, bồi hồi trong lòng tiếc thương kính cẩn. Nhưng bên cạnh đó, đây cũng là một hình ảnh ẩn dụ đẹp, một sự sáng tạo của nhà thơ. Cuộc đời của mỗi chúng ta đã nở hoa dưới ánh sáng của Bác. Những bông hoa tươi thắm đó đang dâng lên Người những gì đẹp nhất. Đó cũng là sự tri ân của dân tộc đối với Bác. “Bảy mươi chín mùa xuân là hình ảnh hoán dụ mang ý nghĩa tượng trưng. Con người bảy mươi chín mùa xuân ấy đã sống một cuộc đời đẹp như những mùa xuân, đã làm nên bao mùa xuân đẹp cho đất nước, cho dân tộc.
Niềm biết ơn thành kính trong lòng tác giả và dòng người vào lăng viếng Bác đã chuyển sang niềm xúc động nghẹn ngào khi đứng trước di hài Bác:
“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên
Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền
Vẫn biết trời xanh là mãi mãi
Mà sao nghe nhói ở trong tim!”
Trong đoạn thơ, tác giả đã sử dụng nghệ thuật nói giảm nói tránh về sự ra đi của Người. Giấc ngủ mà tác giả nhắc đến ấy cũng khiến ta bồi hồi suy ngẫm. Suốt cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân, Bác chưa bao giờ có một giấc ngủ trọn vẹn: “Đêm nay Bác ngồi đó / Đêm nay Bác không ngủ / Vì một lẽ thường tình / Bác là Hồ Chí Minh.” (Minh Huệ) Liên tưởng đến câu thơ này càng khiến ta thêm nghẹn ngào, thành kính trước giấc ngủ ngàn thu đã phần nào yên giấc của Bác. Và ánh sáng dịu nhẹ trong lăng Bác gợi một liên tưởng thú vị tới hình ảnh vầng trăng. Trăng-một người bạn tri kỉ của Bác: “Trăng vào cửa sổ đòi thơ / Việc quân đang bận xin chờ hôm sau” (Báo Tiệp), trăng khi kháng chiến, trăng trong nhà lao, trăng ngoài chiến trận và giờ đây trăng đến bên người đẻ vỗ về giấc ngủ ngàn thu. Cùng với hình ảnh vầng trăng, nhà thơ Viễn Phương muốn tạo ra một hệ thống hình ảnh vũ trụ để ví với Bác. Vầng trăng dịu hiền hay chính là tâm hồn cao đẹp, trong sáng của Bác. Bác rực rỡ như mặt trời, Bác dịu hiền như ánh trăng. Bác đã hóa thân vào thiên nhiên đất trời dân tộc, sống mãi trong sự nghiệp và trong tâm trí của nhân dân như bầu trời xanh vĩnh viễn trên cao.
“Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi cành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già.”
(“Bác ơi!” - Tố Hữu)
Dù vẫn biết là như vậy nhưng người con Viễn Phương không thể không đau xót trước sự ra đi của Người. Nỗi đau xót đã được biểu hiện rất cụ thể, trực tiếp: “Mà sao nghe nhói ở trong tim”. Nỗi đau quặn thắt, tê tái như hàng ngàn mũi kim đâm vào trái tim thổn thức. Đó là sự rung cảm chân thành của nhà thơ. Bởi về lí trí, Bác đã ra đi thật sự nhưng về tình cảm, Người vẫn đang hiện hữu trong trái tim mỗi người con Việt Nam và trong lòng dân tộc.

 

ĐỌC THÊM: GỢI Ý LÀM ĐỀ TUYỂN SINH VÀO LỚP 10 2024 - 2025 SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO HÀ NỘI


Nhưng rồi cuộc sum họp nào rồi cũng chia lìa, đứng trước lăng Bác trong niềm cảm xúc vô bờ, chạnh nghĩ đến việc trở về miền Nam nhà thơ đã không kìm được nỗi niềm thương nhớ:“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”.Thương, thương đến trào nước mắt, đó chính là tình thương của nhân dân Việt Nam, của miền Nam ruột thịt dành cho Bác trong giây phút này, giây phút lặng người trước sự hi sinh to lớn của Bác… tất cả như im lặng… lặng im… Những cảm xúc bị dồn nén bỗng trào dâng “thương trào” thật tự nhiên, thật chân thành. Và trong phút chốc ấy, nhà thơ như muốn hóa thân:
“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác
Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây
Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này.”
m hưởng bài thơ được nhấn mạnh lên qua điệp ngữ “muốn làm”. Hình như có một sức mạnh vô hình nhưng mãnh liệt níu kéo lòng ta ở lại. Phải chi ta có thể biến thành những gì thân yêu quanh nơi Bác yên nghỉ, để có thể hằng ngày nhìn thấy Bác, nhìn thấy cả tấm lòng của người lãnh tụ vĩ đại, bao dung. Ước gì ta có thể làm một con chim nho nhỏ góp tiếng hát của mình vào những buổi bình minh nơi lăng Bác. Hay ước chi ta được làm một bông hoa dân tộc nở quanh lăng của Người. Và phải chi một ngày nào đó ta sẽ trở thành một cây tre bên những hàng tre xanh tỏa bóng mát dịu dàng nơi lăng Bác. “Ta bên Người, Người tỏa sáng trong ta/Ta bỗng lớn ở bên Người một chút”. Ước chi… ước chi… điều ước duy nhất là tiếp bước con đường, đi theo lý tưởng của Bác trong công cuộc xây dựng đất nước. Câu thơ kết thúc trầm lắng nhưng sao tâm hồn nhà thơ lại vút lên cao. Nỗi thương nhớ, sự tự nguyện giờ phải biến thành những gì có thật hơn, những gì mà có thể cống hiến cho quê hương, Tổ quốc, để muôn đời xứng đáng với những gì Bác đã làm cho dân tộc.
Trải qua bao dòng chảy thời gian, bài thơ vẫn chạm đến trái tim người đọc bởi nội dung và nghệ thuật đặc sắc. Bài thơ được viết theo thể thơ tám chữ sáng tạo, kết hợp khéo léo chất tự sự và trữ tình. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc, đậm chất Nam Bộ đồng thời sử dụng những hình ảnh thơ chân thực gợi nhiều trường liên tưởng. Đặc biệt, tác giả sử dụng thành công các biện pháp nói giảm, nói tránh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp từ,... Bốn khổ thơ, khổ nào cũng đầy áp ẩn dụ, những ẩn dụ đẹp và trang nhã, thể hiện sự thăng hoa của tình cảm cao cả, nâng cao tâm hồn con người. “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là một đóng góp quý báu vào kho tàng thi ca viết về chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại kính yêu của dân tộc. Bằng những từ ngữ, lời lẽ chân thành, giàu cảm xúc ấy, nhà thơ Viễn Phương đã bày tỏ được niềm xúc động cùng lòng biết ơn sâu sắc đến Bác trong một dịp ra miền Bắc viếng lăng Bác. Bài thơ như một tiếng nói chung của toàn thể nhân dân Việt Nam, biểu lộ niềm đau xót khi thấy Bác kính yêu ra đi.
Qua “Viếng lăng Bác” ta cảm nhận được Viễn Phương đã thơ làm thơ để giãi bày tình cảm, để thổ lộ nỗi lòng của chính mình. Khi những xúc động mạnh mẽ, những suy nghĩ thầm kín, những tư tưởng sâu sắc và những tình cảm dâng trào, thơ và tâm hồn nghệ sĩ sẽ gặp nhau. Nhà thơ dùng thơ ca để thể hiện những cảm xúc mạnh mẽ trong tâm hồn. Thơ đến với chúng ta bằng sự đồng điệu của những tấm lòng, bằng mối giao cảm của tiếng nói tri âm, tri kỉ. Thơ là “chuyện đồng điệu” là “tiếng nói đồng ý, đồng tình”. Thơ được hình thành nhờ mối rung cảm thầm kín giữa con người và cuộc sống. Trong dòng chảy của thơ, con người được đắm chìm trong tình cảm của nhà thơ và của chính mình. Thơ thấm vào lòng người, bởi những cảm xúc trực tiếp và nhiều mối liên tưởng kín đáo, bằng ý tử sâu xa, sức quyến rũ của tiết tấu và thanh điệu. Chúng ta tìm thấy trong thơ những gì cần thiết nhất cho tuổi trẻ: cuộc sống, tình yêu, mơ ước.
Đã có rất nhiều áng văn thơ bất hủ viết về Bác, về sự nghiệp cách mạng sáng ngời của Người, “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương xứng đáng góp mặt trong những tác phẩm thi ca xuất sắc nhất viết về Bác, bằng tình cảm trân trọng, kính yêu của người con miền Nam, Viễn Phương đã nói lên tình cảm của hàng triệu con người Việt Nam dành cho vị cha già dân tộc. Bác sẽ luôn là mặt trời sáng nhất, ấm áp nhất trong trái tim mỗi con người Việt Nam. Hình ảnh về Bác, về sự nghiệp và cuộc đời của Bác đâu chỉ gây xúc động cho Viễn Phương, cho con người, dân tộc Việt Nam mà còn là người truyền cảm hứng cho rất nhiều con người, dân tộc trên thế giới, viết về Người, đúng như nhà thơ người Cu Ba từng viết: Hồ Chí Minh - tên người là cả một miền thơ.

 

Đăng ký khóa học và đọc thêm nhiều bài viết hấp dẫn khác của Học Văn Chị Hiên tại đây:

Fanpage Học Văn Chị Hiên
- Fanpage Học Văn Chị Hiên - THCS Lớp 6,7,8,9

Tin liên quan